Jump to content

xứ việt

Administrators
  • Posts

    38905
  • Joined

  • Last visited

Everything posted by xứ việt

  1. CSVN sẽ bầu cử cái gọi là Quốc Hội của CSVN vào tháng 5 tới. Bây giờ đã thấy cò mồi đội lốt xã hội dân sự, đảng sự, “tuyên truyền viên bằng miệng” gì đó của CSVN trá hình vận động cho việc tự ứng cử. Mới có mấy ngày mà họ đã phao tin đồn đã có phong trào tự ứng cử và có nhiều người hưởng ứng. Có người đã viết trên trang Facebook của mình, trả lời trên phát thanh ngoại quốc, kêu gọi mọi người dân đủ điều kiện hãy tự ra ứng cử vào cuộc bầu cử sắp tới và cá nhân ông cũng đã tự tuyên bố ra ứng cử trong cuộc bầu cử Quốc hội CSVN, để gọi là phản biện” thể thức bầu cử của CS và “giáo dục quần chúng” về tự do bầu cử. Nhưng người dân Việt Nam đã kinh nghiệm CS ngoài Bắc trên 60 năm, trong Nam trên 41 năm, quá rành CS, không dễ bị CS lường gạt nữa. Con ruồi CS bay ngang, đực hay cái dân chúng có thể phân biệt được nên đâu có thèm nghe những gì CS tuyên truyền dù trắng, đen hay xám, dân vận, quân vận, hay địch vận. Người dân VN đã quá rành cái kiểu “đảng cử dân bầu” toàn đảng viên CS hay gia nô của CS, cái kiểu Đảng cơ cấu 95% “đại biểu nhân dân” của Quốc Hội phải là đảng viên CS, tên nào cũng kiêm nhiệm một chức bên nhà nước, hay trong đảng và các đoàn thể tay chân của Đảng. Để Quốc Hội của CSVN là của Đảng, do Đảng và vì Đảng CSVN. Đảng dùng Quốc Hội đảng cử dân bầu để họp thức hoá thành luật lệ nhưng quyết định của Đảng CSVN cho có vẻ hình thức nhân dân mà thôi. Quốc Hội là cơ quan phục vụ chánh yếu cho quyền lợi Đảng CS, nên trở thành một “Quốc hại” cho quốc gia dân tộc VN. Chắc chắn những cò mồi đội lốt xã hội dân sự, đảng sự gì đó, và những “tuyên truyền viên” của CSVN trá hình vận động cho việc tự ứng cử biết cái kiểu tráo bài ba lá của đảng CS đối với Quốc Hội. Nhưng “cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra”, lỡ làm thân cò mồi rồi phải nói và làm theo “chỉ đạo” của CS mà thôi. Chớ không cần phải tiến sĩ, truyên truyền viên người “Bắc” mới có “lý luận” như Tổng Trọng đã nói, mà chỉ cần một học trò lớp ba trường làng, một nông dân bận cày sâu cuốc bẫm cũng biết sự thật này. Trong một Quốc Hội mà Đảng cơ cấu 95% là đảng viên CS, thì nếu tự ứng cử vào Quốc Hội thì như Tố Hữu nói, chỉ có một “đường máu chảy về tim, thầy theo Đảng chúng em theo thầy” thôi. Theo Đảng, làm cây kiểng nhân dân cho Đảng, làm gia nô, người ăn kẻ ở đợ trong nhà CS, phải luôn nhất trí, đồng tình biểu quyết theo Đảng để được hưởng cơm thừa cá cặn từ đặc quyền đặc lợi của Quốc Hội, chớ tài thánh cũng không thể làm gì lợi cho đất nước nhân dân trước cái đa số “cực kỳ” đa số, đa số siêu áp đảo mà Đảng Nhà Nước đã cơ cấu 95% đại biểu nhân dân là đảng viên CS. Còn nói “tự ra ứng cử Quốc hội để thúc đẩy người dân học tập dân chủ", thì - xin lỗi - đã qúa khinh thường dân chúng VN. Chỉ người CS mới tự cao tự đại vô lối, coi mình là “đỉnh cao trí tuệ”, tự nhận và mạo nhận nhiệm vụ “giáo dục quần chúng nhân dân”. Chớ người dân cử chánh trực, theo đức nghiệp đại diện dân, là người của nhân dân, do nhân dân uỷ nhiệm, hoạt động vì quyền lợi của nhân dân. Đảng phái chỉ là phương tiện để thực hiện, không có đảng phái nào cao hơn tổ quốc, nhân dân cả. Không phải riêng trong chế độ CSVN, mà trong tất cả chế độ CS đã chết hay còn sót lại loe hoe ở 4 nước trên thế giới, ai cũng biết hoàn toàn không có đối lập, hoàn toàn không có tự ứng cử. Ứng cử viên phải qua giới thiệu, hiệp thương của đoàn thể, của Đảng và truông nhà Hồ quan trọng nhứt là Mặt Trận Tổ Quốc sàn lọc. Tất cả những tổ chức sàn lọc ấy đều là nanh vuốt của Đảng CS. Đảng không đồng ý thì bị loại ngay, không ứng cử ứng kiết gì được cả. Đảng cần phân chia thực kỹ, một đơn vị bầu túc số cần 5 ghế, thì chỉ cho còn 6 ứng cử viên thôi, và 6 người ấy là đảng viên hay cảm tình viên của Đảng. Để dân không còn cách nào khác là phải bầu cho người do Đảng đưa ra ứng cử. Dân chúng VN tiếu lâm gọi cái trò đó là “đảng cử dân bầu”. Nó khác với thể thức bầu cử dân chủ, quyền ứng cử quan trọng hơn quyền bầu cử. Còn bầu cử CS, CS giành quyền đưa ứng cử viên ra nên dân chỉ còn cái việc đi bầu và bầu ứng cử viên của Đảng CS đưa ra mà thôi. CS còn dùng biện pháp hành chánh buộc dân phải đi bầu, nếu không sẽ gặp rắc rối nhiều thứ trong cuộc sống và làm ăn khi lên huyện vô xã xin giấy tờ. Thành ra những người tuyên bố tự ứng cử mà được ứng cử, được vào danh sách ứng cử viên do Nhà Nước chánh thức công bố, niêm yết, và mở cuộc vận động tranh cử là những người đã có thoả thuận ngầm với Đảng CS để làm cây kiểng, để Quốc Hội có vẻ nhân dân. Nhưng người này vô tình nối giáo cho CS biến Quốc hội thành quốc hại đất nước và nhân dân VN. Quốc Hội CSVN đã thành Quốc Hại VN từ khi CSVN cướp được chánh quyền của quốc gia dân tộc VN. Quốc hội CSVN câm như hến trước việc Thủ Tướng Phạm văn Đồng ký gởi “Công hàm bán nước”, triều cống hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Tổ quốc VN cho TC. Bộ Chánh Trị của Đảng CSVN ký hiệp định biên giới dâng cho TC 1000 km2 đất vùng biên giới năm 1958. Mất Ải Nam Quan vào tay Trung Quốc mà tất cả cán bộ đảng viên câm như hến. Hiệp định lãnh hải CS Hà Nội đã dâng cho TC 10.000 km2, phân nửa Vịnh Bắc Việt năm 2000. Còn Hiệp ước Việt–Trung về Vịnh Bắc bộ và Nghị định thư về hợp tác đánh cá trong Vịnh Bắc Việt – những quyền lợi sanh tử của đất nước ông bà VN để lại, thì cái gọi là Quốc hội thông qua không thảo luận, nhanh như chớp trong phiên họp bế mạc, với số phiếu 424 thuận, 1 chống và 8 không có ý kiến.” Về vấn đề Trung Cộng khai thác bauxite ở Tây Nguyên, cả nước chống Đảng Nhà Nước CS triều cống cho quan thầy TC, TC tàn phá môi sinh, văn hoá đồng bào Thượng ở Cao Nguyên và nguy hiểm cho an ninh quốc phòng VN. Thế mà Quốc hội thứ 5 khóa XII, ông Trần Đình Đàn, chủ nhiệm Văn phòng, đã tỉnh bơ như người “Hà lội”, tuyên bố rằng Quốc hội hoàn toàn ủng hộ chủ trương khai thác bauxite, lập lại lời của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, khai thác bauxite là chủ trướng “lớn” của Đảng. Một quốc hội như thế mà tự ứng cử vô là cơ nguy vong thân, là biến thái, bán mình cho CS, thành tay sai cho CS hại nước hại dân. (VA) Vi Anh (Việt Báo)
  2. Ngày tưởng niệm 17/2 cuộc chiến tranh vệ quốc chống Trung cộng xâm lược 1979 vào năm nay đã để lại một dư âm bất bình thường. Trong lúc tinh thần chống Trung cộng vẫn được duy trì và ngày càng dâng cao trong giới trí thức và người dân, kế hoạch tưởng niệm vẫn được tiến hành đều đặn như những năm trước, thì về phía chính quyền lại diễn ra những động thái hoàn toàn trái ngược nhau. Khác hẳn với thái độ hằn học và dùng tiểu xảo vào năm 2015, vào năm nay chính quyền Hà Nội tỏ ra ôn hòa hơn. Vài trăm trí thức và người dân đã tập hợp được trước tượng đài Lý Thái Tổ để tưởng niệm mà hầu như không gặp một sự cản quấy nào. Nhưng ngược lại ở phía đầu cầu bên kia của Việt Nam, Sài Gòn vẫn chứng kiến hành vi ngăn chặn, đàn áp rất thô bạo và không thiếu kiên quyết của lực lượng an ninh. Chưa kể nhiều cuộc đàn áp biểu tình xảy ra trong những năm trước, chỉ trong hơn 3 tháng qua, ba lần chính quyền và công an Sài Gòn đã tỏ ra sắt máu hơn hẳn Hà Nội, hiển lộ ý đồ và hành vi đàn áp tinh thần thoát Trung một cách có hệ thống. Ai đã ra lệnh cho những cuộc đàn áp ấy? Nhằm ý đồ gì trong bối cảnh Trung Quốc vẫn tiếp diễn can thiệp vùng biển và vùng trời của Việt Nam, tái diễn bắt giữ và bắn giết ngư dân Việt? Có một âm hưởng và những dấu hiệu nào đó khiến người ta buộc phải nhớ lại sự kiện - vụ việc hàng chục ngàn công nhân kéo xuống đường biểu tình phản đối Trung cộng ở Bình Dương, Đồng Nai và Hà Tĩnh vào giữa năm 2014, khi Trung cộng cho giàn khoan Hải Dương 981 vào hải phận Việt Nam ở Biển Đông. Nhưng những cuộc xuống đường trên đã mau chóng bị biến thành một chiến dịch đập phá và thậm chí sát hại người Hoa. Câu hỏi cho tới nay vẫn còn chìm trong vòng bí mật là ai, thế lực nào và nhằm mục đích gì đã tổ chứcg hướng công nhân vào hành vi bạo lực như thế? Liệu có đúng như một luồng thông tin ngoài lề cho rằng có một trò đấu đá phe phái nào đó trong nội bộ đảng? Giờ đây, chính quyền Sài Gòn cũng đang khiến dư luận xã hội đầy nghi ngờ về một mối toan tính nào đó. Có thể có nguyên do nội bộ. Nhưng sau hết, Trung cộng mới là người hưởng lợi. Và người đã ra lệnh cho công an Sài Gòn tiến hành đàn áp phong trào thoát Trung một cách bài bản, có hệ thống và đặc biệt quyết liệt trong những năm gần đây, kể cả vào thời gian Công an Hà Nội đã có dấu hiệu “buông”, đã gián tiếp hoặc trực tiếp làm lợi cho Bắc Kinh. Liệu nhân vật hoặc thế lực ra lệnh đó có mối liên đới mật thiết nào với Trung cộng? Liệu ý đồ đàn áp thẳng tay ấy có liên đới gì với cựu bí thư thành ủy Sài Gòn Lê Thanh Hải – người từ lâu bị đồn đoán là “gốc Hoa”? Hoặc còn liên đới với những nhân vật cấp cao hơn nữa? Ngay trước mắt, người thay thế Lê Thanh Hải là Đinh La Thăng đang phải đối mặt với nguy cơ “đâm dao sau lưng”. Có thể trong quá khứ, ông Thăng không có mối liên hệ nào với một Sài Gòn đầy rẫy tham nhũng, mafia và các đường dây chính trị. Nhưng cũng bởi thế, ông Thăng khó tránh được những cạm bẫy đang giăng chờ sẵn. Một trong những cạm bẫy như thế là dùng nhân quyền là mồi hy sinh, đàn áp thoát Trung để phục vụ những mưu đồ xung đột quyền lực phe phái. Chưa kể đến việc không thể loại trừ trong chính quyền Sài Gòn có những kẻ ẩn mặt làm việc cho Bắc Kinh… Nếu không tự điều tra làm rõ tất cả những ẩn giấu trên, Đinh La Thăng khó tránh khỏi sụp bẫy vào một thời điểm nào đó. Lê Dung (SBTN)
  3. Tên lửa đất đối không (SAM) TRIUMF S-400 của Nga (SA-21 – theo cách gọi của NATO) đã lọt vào tầm ngắm của giới truyền thông vào cuối năm 2015 – thời điểm mà Moscow triển khai hệ thống này sau vụ Thổ Nhĩ Kỳ bắn hạ một máy bay ném bom tấn công Su-24 của Nga gần biên giới Syria vào ngày Lễ Tạ ơn. Động thái này của người Nga buộc Thổ Nhĩ Kỳ phải dừng các hoạt động không quân của mình và được cho là cũng đã tác động đến các hoạt động không quân của Hoa Kỳ và đồng minh trong khu vực. Điều đó đã minh chứng cho sức mạnh của hệ thống phòng không tối tân này. Sự việc này đã cho thấy tiềm năng chiến lược của S-400, một tiềm năng mà Trung Quốc – quốc gia đầu tiên trên thế giới nhập khẩu hệ thống này – đang tìm kiếm để tận dụng trong trường hợp khủng hoảng xảy ra trong tương lai. Vào tháng 4 năm 2015, Nga thông báo đã bán 4 đến 6 tiểu đoàn S-400 cho Trung Quốc. Hiện vẫn chưa rõ Trung Quốc sẽ triển khai những hệ thống này ở đâu. Tuy nhiên, việc triển S-400 có thể ảnh hưởng đến trật tự an ninh khu vực và tác động đáng kể đến khả năng đáp trả của Hoa Kỳ và đồng minh đối với những cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan, bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông và Biển Đông. S-400 là gì? S-400 là hệ thống tên lửa SAM tầm xa hiện đại nguy hiểm nhất được triển khai thực chiến trên thế giới. Tầm bắn hiệu quả lớn nhất của S-400 lên đến 400 km (215 hải lý). Hệ thống này được tin rằng có thể theo dõi 100 mục tiêu đang bay và tấn công 6 mục tiêu cùng một lúc. Tên lửa S-400 cũng được cho là có khả năng chống lại máy bay tàng hình và vũ khí dẫn đường chính xác, cũng như có thể di chuyển cực kỳ linh hoạt. S-400 là ví dụ điển hình của một hệ thống chống xâm nhập/chống tiếp cận (A2/AD). Ý tưởng của A2/AD là ngăn chặn lực lượng đối phương xâm nhập vào một khu vực cụ thể và giới hạn khả năng hoạt động tự do trên chiến trường của đối phương. Như Robert Haddick gần đây đã nhấn mạnh trên trang War on the Rocks, các hệ thống A2/AD tạo nên vấn đề độc nhất vô nhị đối với khả năng triển khai sức mạnh của Mỹ và khả năng duy trì lợi thế về công nghệ của quân đội Mỹ trước các đối thủ. Tuy nhiên, việc Nga triển khai S-400 đã cho thấy rằng những hệ thống như vậy thậm chí còn có những ảnh hưởng chiến lược lớn hơn nữa. Dù không phải là tên lửa SAM đầu tiên đe dọa máy bay trong tầm bắn hàng trăm dặm (SA-5, được triển khai từ năm 1966, có tầm bắn trong phạm vi 150 hải lý), khả năng của S-400 làm nó trở nên nguy hiểm hơn ít nhiều so với một hệ thống SAM phòng thủ truyền thống. Nó có thể tấn công đa dạng các loại mục tiêu, bao gồm máy bay tàng hình và tên lửa hành trình. Tầm bắn của nó đối với máy bay hoạt động ở độ cao trung bình hoặc cao lớn đến nỗi nó có thể đe dọa cả máy bay các nước láng giềng đang trong không phận của họ. Chỉ riêng khả năng này đã đủ làm gia tăng nguy cơ đối với bất kỳ chiếc máy bay đắt tiền nào hoạt động gần một hệ thống S-400. Một tên lửa S-400 đơn lẻ tiêu tốn vài triệu đô la có thể bắn hạ một tài sản quân sự trị giá hàng trăm triệu đô la, như máy bay thông minh không người lái RQ-4, máy bay chiến đấu F-22 hay F-35, hay tệ hơn, một chiếc máy bay ném bom B-2 trị giá hơn 2 tỷ đô la một chiếc. Và nó có thể làm được điều đó từ khoảng cách xa hơn bất kỳ tên lửa SAM đối thủ nào. Vì vậy, tên lửa S-400 tạo ra một ưu thế về tỷ lệ hao tổn tài chính có thể ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định ở tầm chiến lược. Tiềm năng ứng dụng cho Trung Quốc Nếu được cung cấp đủ số lượng và kết hợp với các hệ thống phòng không tối tân khác, S-400 có thể gia tăng sức mạnh và mở rộng mạng lưới A2/AD vốn đã mạnh mẽ của Trung Quốc. Mạng lưới này bao gồm hệ thống tên lửa SAM S-300PMU và HQ-9 (tầm bắn 200km) và tên lửa đạn đạo đối hạm (ASBM) DF-21D (tầm bắn 1,500 km). Các loại vũ khí này gây ra mối đe dọa thực sự đối với khả năng của Hoa Kỳ trong việc đảm bảo an ninh cho các đồng minh và đối tác có tranh chấp với Trung Quốc. Hệ thống S-400 sẽ cho phép các lực lượng Trung Quốc ngăn cản hoặc tác động đến cách thức hoạt động của máy bay và việc sử dụng sức mạnh không quân trong thời bình. Quá trình triển khai hệ thống tên lửa của Nga ở Syria đã chứng minh cho khả năng này. Tuy Nga không cho thấy dự định sử dụng S-400 để tấn công máy bay của Mỹ hoặc đồng minh (có lẽ ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ), nhưng những nhà hoạch định hoạt động không quân trên chiến trường dường như đã phát triển những phương pháp nhằm hướng dẫn các máy bay có người lái và không người lái bay trong tầm bắn của S-400. Nếu Nga quyết định làm vậy, họ có thể làm vô hiệu hóa thành công không quân Mỹ, Pháp hay NATO đóng ở Địa Trung Hải. Kết quả là liên minh chuyển sang sử dụng vũ khí tấn công ngoài tầm phòng không (standoff munitions) và điều này sẽ nâng cao đáng kể giá trị mỗi phát đạn, rất có thể sẽ làm cho nhiều đồng minh “dễ tổn thương” phải rút ra khỏi cuộc xung đột quá hao tiền tốn của do Mỹ dẫn đầu. Ảnh hưởng chiến lược của S-400 thậm chí là rõ ràng hơn khi hệ thống này được phân tích thông qua lăng kính của những cuộc khủng hoảng hay tình huống bất ngờ về quân sự có thể xảy ra dọc vùng ngoại biên của Trung Quốc. Mặc dù thông tin công khai về việc triển khai hệ thống này ở Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng, vẫn có vài vị trí tiềm năng. Mỹ và các nhà lãnh đạo đồng minh sẽ không ngạc nhiên nếu Trung Quốc triển khai tên lửa S-400 để hỗ trợ hoạt động quân sự ở gần Đài Loan, gần quần đảo Senkaku ở Biển Hoa Đông, dọc theo biên giới Bắc Triều Tiên để dự phòng tình huống xấu xảy ra trên bán đảo, hay ở Biển Đông để hỗ trợ các hoạt động bảo vệ tuyên bố chủ quyền. Nếu được triển khai dọc eo biển Đài Loan, hệ thống S-400 sẽ kiểm soát máy bay thông thường ở độ cao trung bình hoặc cao, đồng thời bao quát hoàn toàn lãnh thổ Đài Loan và củng cố thế bao vây được thiết lập bởi các hệ thống S-300PMU và HQ-9. Vì vậy nếu xung đột xảy ra, bất cứ lực lượng không quân nào cất cánh từ Đài Loan sẽ ngay tức khắc có nguy cơ bị bắn hạ. Trong phần lớn thời gian, không quân và không quân hải quân Hoa Kỳ sẽ đồng thời cần phải hoạt động hiệu quả ở phía đông Đài Loan để tránh mối đe dọa từ SAM. Các máy bay tình báo, trinh sát và do thám (ISR) bay ở khoảng cách như thế sẽ ít có khả năng giám sát được diễn tiến ở phía tây Đài Loan, do đó hạn chế tính hữu dụng của chúng như là một công cụ cung cấp tình báo cho bên thứ ba là Đài Loan hoặc mở đường cho Mỹ giải quyết sớm cuộc khủng hoảng bằng một sự phô diễn sức mạnh. Không có tình báo chiến thuật chi tiết, chính xác và kịp thời từ các máy bay ISR để giúp định hướng các cuộc tấn công, các máy bay chiến đấu và tấn công (giả sử rằng chúng vượt qua lớp phòng thủ SAM) sẽ trở nên cực kỳ dễ tổn thương khi nỗ lực chống lại các mối đe dọa từ dưới mặt đất và trên không. Do đó, các nhà hoạch định chiến lược Mỹ và Đài Loan phải lên kế hoạch nhường quyền kiểm soát không phận cho người Trung Quốc, chấp nhận nguy cơ cao đối với các đơn vị không quân Mỹ và suy xét làm sao để mở các cuộc tấn công vào đại lục với cường độ cao vào hệ thống SAM để vô hiệu hóa mối đe dọa này. Việc Trung Quốc triển khai S-400 dọc biên giới với Triều Tiên và trên bán đảo Sơn Đông sẽ cho phép họ bao trùm phần lớn Bắc Triều Tiên. Trong trường hợp có chiến tranh giữa hai miền Triều Tiên, Trung Quốc có thể triển khai hệ thống này để ép Bình Nhưỡng và ngăn chặn các lực lượng Mỹ và Hàn Quốc thực hiện các cuộc không kích mà Bắc Kinh cho là nhằm gây mất ổn định tình hình. Trung Quốc cũng có thể dùng hệ thống tên lửa S-400 kết hợp với hệ thống tên lửa S-300PMU và HQ-9 để đe đọa các cuộc không kích từ các đơn vị tàu sân bay Mỹ neo ở biển Hoàng Hải, nhờ đó buộc các đơn vị này phải di chuyển sang phía đông Hàn Quốc. Bằng cách bố trí kỹ lưỡng hệ thống S-400, Trung Quốc cũng có thể gây sức ép buộc Mỹ và Hàn Quốc phối hợp hoạt động trên không cùng lực lượng quân sự Trung Quốc nhằm giả vờ rằng đang có sự suy giảm xung đột trên không. Điều này có thể cho phép Bắc Kinh bóp nghẹt nhịp tiến quân của Mỹ và đồng minh. Quần đảo Senkaku nằm ngay rìa tầm bắn của hệ thống S-400 được triển khai trên bờ biển Trung Quốc. Tuy nhiên, việc triển khai hệ thống tên lửa này trong một cuộc khủng hoảng liên quan đến Senkaku có thể một lần nữa giúp Trung Quốc gây ảnh hưởng lên toàn bộ quá trình. Hệ thống S-400 giúp yểm trợ phòng không cho những tàu có vũ khí trên biển thực hiện nhiệm vụ từ bờ biển Trung Quốc hướng về Senkaku. Nếu kết hợp với các hệ thống tên lửa SAM được trang bị trên tàu chiến như HHQ-9 và hoạt động tuần tra trên không giữa trận chiến (CAP) thực hiện bởi máy bay chiến đấu từ đất liền, hiệu quả kết hợp có thể giúp mở rộng sự yểm trợ phòng không từ SAM lên quần đảo Senkaku – một khả năng mà Nhật Bản khó có thể bắt kịp. Do đó, những nhà hoạch định chiến lược Nhật Bản và Hoa Kỳ phải lên kế hoạch kỹ lưỡng để chống lại CAP của Trung Quốc và tấn công những đơn vị chiến đấu trang bị tên lửa SAM của Bắc Kinh. Trong khi đó, họ phải dàn quân bên ngoài tầm bắn của S-400 trên đất liền hoặc chấp nhận có khả năng mất ưu thế trên không đối với quần đảo nếu có khủng hoảng hay xung đột. Việc điều động các tàu ngầm hạt nhân chiến lược và có khả năng là một tàu sân bay đến đảo Hải Nam tạo cho Trung Quốc lý do chính đáng để triển khai hệ thống S-400 và các hệ thống tên lửa khác lên hòn đảo này, nơi mà sức mạnh tổng hợp có thể gây sức ép lớn lên phía bắc Biển Đông. Trung Quốc cũng đã xây dựng các đảo nhân tạo có thể hỗ trợ việc triển khai hệ thống này ở giữa quần đảo Trường Sa, cho phép họ kiểm soát không phận phía trên toàn bộ quần đảo. Trong một cuộc khủng hoảng, Trung Quốc có thể sử dụng hệ thống tên lửa SAM để kiểm soát sự xuất hiện của máy bay do thám nước ngoài, làm suy yếu khả năng của Mỹ và các quốc gia khác nhằm có được một bức tranh chính xác về các diễn tiến mang tính chiến thuật. Trong một cuộc khủng hoảng quân sự với các bên tranh chấp, kiểm soát không phận trên toàn bộ quần đảo Trường Sa sẽ mang đến cho họ một ưu thế quân sự to lớn so với các đối thủ cùng đòi hỏi chủ quyền khác. Trong trường hợp Trung Quốc quyết định thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông, việc triển khai hệ thống tên lửa S-400 ở quần đảo Trường Sa cũng như là đảo Hải Nam và/hoặc quần đảo Hoàng Sa sẽ mang đến sự tự tin thực sự cho những nỗ lực thực thi quyền kiểm soát của Trung Quốc. Tuy vậy, học thuyết, thời tiết và vị trí biệt lập của các đảo có thể giới hạn tính hữu dụng của S-400 trên các đảo ở Biển Đông. Vì S-400 dựa trên sự di chuyển linh động để đảm bảo khả năng sống sót, đặt nó lên một hòn đảo nhân tạo trên quần đảo Trường Sa sẽ làm cho toàn hệ thống dễ bị tấn công. Tác động ăn mòn từ từ của độ ẩm cao và nước biển cũng sẽ làm cho việc bảo trì hệ thống S-400 vốn không dành cho chiến đấu trên biển đặc biệt khó khăn, chưa kể lại ở một vị trí quá xa. Khuyến nghị chính sách Đối với Trung Quốc, hệ thống tên lửa S-400 bổ sung và củng cố sức mạnh cho các vũ khí A2/AD quan trọng khác như tên lửa SAM S-300PMU và HQ-9, tên lửa đạn đạo đối hạm (ASBM) DF-21D, các hệ thống tác chiến điện tử, và tên lửa hành trình phóng từ trên không. Sức mạnh tổng hợp từ những loại vũ khí hỗ trợ cho nhau này sẽ làm tăng sự tự tin của Bắc Kinh và có thể thách thức tính khả thi của việc Mỹ can thiệp quân sự vào các sự cố có thể xảy ra dọc biên giới Trung Quốc. Không có những đầu tư lớn vào công nghệ tàng hình và chống tên lửa SAM, hoặc những thay đổi lớn tới huấn luyện và định hướng chiến lược trước các hệ thống tên lửa này, nước Mỹ sẽ phải đối mặt với thách thức to lớn khi đối phó với mối đe dọa từ chúng. Thông thường Mỹ sử dụng kết hợp tấn công điện tử, công nghệ tàng hình, mồi nhử và tên lửa tự dẫn bằng ra-đa để chống lại các hệ thống phòng không. Cách tiếp cận đó dường như sẽ không thay đổi khi S-400 xuất hiện, nhưng việc triển khai sẽ gặp thách thức lớn hơn. Nếu Mỹ chọn hành quân bên ngoài lớp vũ khí phòng không, các nhiệm vụ trên không sẽ không còn đáng thực hiện bởi vì quá ít vũ khí trên máy bay có thể hoạt động hiệu quả ở tầm bắn quá xa như thế. Đè bẹp S-400 bằng tấn công tên lửa cũng là một lựa chọn nhưng khả năng di chuyển linh hoạt của hệ thống này làm nó trở thành một mục tiêu rất khó xác định. Ngoài ra, tính chất leo thang căng thẳng của các cuộc tấn công ngay trên lãnh thổ Trung Quốc nhằm phá hủy các hệ thống tên lửa trên cũng làm lựa chọn này trở nên cực kỳ rủi ro. Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ và đồng minh sẽ cần phải suy nghĩ theo hướng khả thi hơn và ít leo thang hơn để giải quyết mối đe dọa từ S-400 cùng với các hệ thống tên lửa SAM tối tân khác trong một tình huống xấu giữa Trung Quốc và một đồng minh hay đối tác của Hoa Kỳ. Nói cách khác, họ cần chấp nhận một mức nguy cơ cao hơn. Cần thiết phải có những khái niệm tác chiến mới để đối phó với mối đe dọa, chẳng hạn như một kỳ vọng lớn hơn vào máy bay tàng hình thế hệ thứ năm và trong tương lai là thế hệ thứ sáu, hoặc những chiến thuật tối tân nhằm giảm thiểu khả năng dễ bị phát hiện của máy bay đối với tên lửa SAM. Các nhà hoạch định sẽ cần chấp nhận khả năng chịu tổn thất lớn về vũ khí công nghệ cao hoặc xem xét tái đầu tư vào những vũ khí chi phí thấp có thể hy sinh như thiết bị bay không người lái (UAV). Trong dài hạn, những nhà hoạch định chính sách ở Mỹ nên lập kế hoạch về việc phát triển các biện pháp đối phó với S-400. Điều này đòi hỏi các khoản đầu tư vào thiết bị gây nhiễu điện tử hoặc các thiết bị khác để đánh lạc hướng hoặc loại bỏ khả năng lần theo máy bay của ra đa S-400. Trong tất cả các trường hợp, hệ thống tên lửa S-400 sẽ mang đến cho Trung Quốc một hệ thống vũ khí đầy sức mạnh chắc chắn làm trầm trọng thêm thách thức về A2/AD vốn đã rất đáng gờm đối với quân đội Mỹ cả trong thời bình, lẫn trong khủng hoảng và xung đột. Nguồn: Timothy R. Heath, “How China’s New Russian Air Defense System Could Change Asia“, War on the Rocks, 21/01/2016. Biên dịch: Đỗ Lâm Thuận | Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương Timothy Heath là nhà phân tích quốc phòng quốc tế cao cấp tại tổ chức phi lợi nhuận, phi đảng phái RAND. (Nghiên Cứu Quốc Tế)
  4. Đôi lời của Ba sàm: Ở Mỹ, người dân đã có quyền biểu tình từ 225 năm trước. Quyền biểu tình của người dân Mỹ đã được quy định trong Hiến pháp, tại tu chính án số 1 và tu chính án này có hiệu lực từ 15-12-1791. Ngoài quyền biểu tình được quy định trong hiến pháp, người dân Mỹ không cần phải có luật biểu tình. Khi biểu tình trong ôn hòa, dân Mỹ muốn xuống đường bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, miễn là không làm cản trở sự lưu thông, đi lại của mọi người, không cần cảnh sát giúp đỡ… Còn biểu tình với số lượng đông người, có thể gây cản trở lưu thông, cần cảnh sát giúp giữ trật tự, thì những người tổ chức biểu tình cần xin phép của thành phố, để thành phố điều cảnh sát tới giúp đỡ họ. Nếu biểu tình trong ôn hòa, không cần sự giúp đỡ của cảnh sát, dân Mỹ có thể biểu tình bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu mà không cần phải xin phép bất kỳ ai. Dân chủ ở xứ “giãy chết” là thế! Ảnh minh họa. Nguồn: báo Dân Trí. Bẵng đi khá lâu, vừa qua tết con khỉ được mấy ngày, người ta thấy trên báo nhà nước nhan nhản tin liên quan đến Luật biểu tình. Báo GDVN có bài: “ĐB Nguyễn Kim Thoa: “Bộ Quốc phòng (QP) nhận thức không đúng về Luật biểu tình”. Báo Người Lao Động nở rộ tin, bài liên quan tới Luật biểu tình. Bài “Chủ tịch Quốc hội: “Xin lùi Luật biểu tình là thiếu nghiêm túc”, được xếp hàng đầu. Hàng loạt bài tiếp theo: “Chính phủ sắp trình Dự thảo Luật biểu tình”; “Bộ công an đề xuất hoãn xin ý kiến Quốc hội về Luật biểu tình”; “Lùi thời gian trình Luật biểu tình”; “ĐB Hoàng Hữu Phước từ phản đối quay sang ủng hộ Luật biểu tình”… Lục lại những bài viết từ 2 năm trước (từ tháng 5 đến tháng 10/2014) liên quan tới Luật biểu tình: “Nhu cầu cần có Luật biểu tình ngày càng cấp bách”; “Quốc hội sẽ thông qua Luật biểu tình vào năm 2015”; “Quốc hội tính thúc đẩy sớm Luật biểu tình”; “Quốc hội khóa 13 rất vinh dự nếu trả nợ được Luật biểu tình”; “Để trả món nợ biểu tình cho dân”; “Khẩn trương ban hành Luật biểu tình”;… rồi: “Thủ tướng chỉ cho phép lùi thời điểm trình dự án Luật biểu tình”; “Chính phủ đề nghị hoãn trình Luật biểu tình thêm một năm rưỡi”; …và: “Lại lùi Luật biểu tình sang năm 2016” .v.v… Như vậy, chỉ cần dạo qua vài “Siêu thị” có trưng bày “mặt hàng” Luật biểu tình, khách hàng đã thấy hoa mắt, chẳng biết đâu là hàng thật, đây là hàng nhái, hàng kém chất lượng, và “hàng” có được bán, hay chỉ bày mẫu! Từ “sớm ban hành…” đến “Khẩn trương ban hành”, và rồi kết thúc ở : “Hoãn một năm…”, cho đến “Chính thức lùi một năm rưỡi…”! Luật biểu tình, cái gì, ở đâu? Biểu tình là một trong những quyền căn bản của công dân ở những quốc gia có dân chủ. Biểu tình là quyền công dân được pháp luật bảo vệ. Hiến pháp (Hiến pháp) nước VNDCCH, sau này là CHXHCNVN đều quy định quyền biểu tình của công dân, bên cạnh những quyền cơ bản khác, như quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do hội họp, lập hội, tự do ngôn luận, tự do cư trú…vv… Tuy nhiên, cũng như những quyền công dân khác đã được minh định trong Hiến pháp nhưng không được thực thi, quyền biểu tình cũng chỉ được trưng bày trong Hiến pháp, từ năm 1946 (đến nay đã tròn 70 năm!) Vào kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 13, TT Nguyễn Tấn Dũng không biết vì “động cơ” gì hay chỉ là cao hứng, bỗng đưa ra trình Quốc hội về quyền biểu tình, và đề nghị được luật hóa quyền công dân này. Tuy nhiên, còn nhanh hơn cả Thủ tướng – là người đề xuất, ĐB Hoàng Hữu Phước đã kịch liệt phản đối việc luật hóa quyền biểu tình của công dân với vô số lý do được viện dẫn. Một trong những lý do đó là bởi dân trí VN còn thấp nên chưa thể ban bố Luật biểu tình (!). Ông nghị này sau đó bị ném đá tơi bời. Tuy nhiên, cũng không phải hoàn toàn vô lý khi ông ta cho rằng dân trí VN còn thấp. (Cứ nhìn vào ý thức tham gia giao thông, trong giao tiếp nơi công cộng, trong sinh hoạt văn hóa, lễ hội…); Nhưng vì dân trí thấp mà hoãn việc ban hành Luật biểu tình, thì cần xem xét lại. Sau “cơn dông” đó, biển dư luận lại yên ắng. Luật biểu tình không thấy ai “xới” lên nữa. Rồi đến phiên họp thứ 9 hay thứ 10 gì đó, Luật biểu tình lại được đưa ra Quốc hội. Lần này Quốc hội là người “bác” với lý do Quốc hội còn bận (?) thảo luận nhiều luật quan trọng, trong đó có luật cho thuê ngủ ôm trong sáng, luật về ngoại tình! Quốc hội thờ ơ với việc thông qua luật biểu tình khiến dư luận ngạc nhiên bởi biểu tình, như đã nói, là quyền cơ bản của công dân. Hơn nữa nó bị phủ rêu trong Hiến pháp mấy mươi năm rồi. Quốc hội cũng là cơ quan Dân cử, đại diện cho Dân, là tiếng nói của Dân… vậy mà Quốc hội lại phủi tay trước cái quyền thiêng liêng bị nhà nước “đóng băng” quá lâu như vậy! Quả bóng Luật biểu tình đang trong chân ai? Cần phải nói ngay rằng, luật biểu tình chưa được ban hành, người duy nhất chịu thiệt là người dân (vì quyền đó là quyền của người dân), chứ không phải Quốc hội, cũng không phải Chính phủ, lại càng không phải đảng, nếu không muốn nói rằng chính những cơ quan công quyền này muốn trì hoãn vô thời hạn quyền biểu tình. “Trước vấn đề xin lùi dự án Luật biểu tình, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đặt vấn đề: “Chính phủ (Chính phủ) ý kiến thế nào về vấn đề này? Tại sao cứ lùi mãi thế? Không làm được hay không chịu làm? Cứ bàn ra bàn vào mãi rồi… Quốc hội, BCT đã quyết định đưa vào chương trình rồi sao Chính phủ cứ lùi mãi…”. Tại sao Chủ tịch Quốc Hội (CTQuốc hội) Nguyễn Sinh Hùng gay gắt thế? Chính phủ là đối tượng bị chỉ trích. Pha “đá xoáy” của CTQuốc hội do ngẫu hứng, hay do động cơ nào? CT Nguyễn Sinh Hùng muốn “tỏa sáng” trước khi biết mình bị “thay ra nghỉ”? Ông muốn “để lại dấu ấn” suốt 5 năm “đá” tròn vai? Sau khi đe: “…thời gian cho ý kiến để thông qua luật biểu tình Quốc hội đã thông qua. Nếu lùi thì Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội!”. CTQuốc hội lại hạ giọng: “Trình ra rồi mà không được thì Thường vụ Quốc hội có thể xin ý kiến Quốc hội không trình ra vì không đủ chất lượng. Nhưng đằng này lại không trình ra UB Thường vụ Quốc hội mà lại xin lùi…”. Nghĩa là, “mày” cứ trình ra đi, sao phải lo! Thích “lùi” thì được “lùi” chứ khó gì. “Tao” chỉ cần báo cáo Quốc hội là cái “trình ra” của “mày” chưa đủ chất lượng là OK ngay chứ khó gì? Lần trước người trình luật biểu tình là Chính phủ, mà cụ thể là TT Nguyễn Tấn Dũng. Người “bác” hay “gác” lại là Quốc hội. Lần này, người “đòi” luật biểu tình phải được trình ra là Quốc hội, trong khi người xin lùi lại là Chính phủ, Bộ Quốc phòng. Và một điều được ghi nhận là, dù ai đòi “trình”, ai đòi “hoãn”, thì cuối cùng, cái luật biểu tình, tức cái quyền lợi căn cốt của người dân vẫn tiếp tục bị/được trì hoãn. Đó là ý đảng (chắc chắn), nhưng không phải lòng dân. Với người dân, có thể chưa phải “có biểu tình là có tất cả”, vì biểu tình chỉ như một trong ba cái “chân kiềng” thiết lập nên Quyền Lực Nhân Dân: Đó là Quyền biểu tình, Quyền lập hội và Quyền tự do báo chí. Nhưng rõ ràng thiếu một trong ba cái “chân” đó thì “kiềng” không đứng được. Vì vậy, đòi được quyền nào hay quyền nấy, và đòi càng sớm càng tốt. Qua đây cũng thấy quyền của người dân thì người dân phải tự đứng lên đòi, bằng cách này hay cách khác, lâu dài, gian khổ… Hy vọng vào việc “trả nợ dân” một cách tự giác từ đảng, chính phủ, quốc hội là điều mơ tưởng. AFR Dân Nguyễn (Ba Sàm)
  5. Lực lượng hải quân Việt Nam trong cuộc diễu hành tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, ngày 2/9/2015. Tin liên hệ Đối đầu tên lửa Việt-Trung ở Biển Đông? Tên lửa Klub VN mua của Nga 'có thể đánh trúng các thành phố ven biển của Trung Quốc' trong khi các hỏa tiễn của Bắc Kinh đặt trên đảo Phú Lâm 'đe dọa đảo Lý Sơn' Mỹ tiếp tục tuần tra bất chấp TQ bố trí phi đạn ở Biển Đông VN, Nhật Bản diễn tập hải quân tại căn cứ ven Biển Đông Người dân VN tưởng niệm 37 năm cuộc chiến biên giới Việt-Trung Trung Quốc khởi sự xây đảo nhân tạo ở Hoàng Sa Ðường dẫn Trang chuyên đề: Tranh chấp Biển Đông 18.02.2016 Trong những năm gần đây, trong khi Trung Quốc ngày càng thể hiện thái độ nước lớn và tham vọng kiểm soát hầu hết Biển Đông, là nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở vùng biển này, Việt Nam đang có các bước đi rõ ràng trong đầu tư cho quốc phòng, chuyển hướng các nguồn lực từ dành cho lục quân sang hải quân và không quân. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì chi tiêu quốc phòng ở mức 2,2% GDP. Theo phân tích của ông Tim Huxley, Giám đốc Điều hành chuyên trách châu Á của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) đặt ở Singapore, chiến lược của Việt Nam là làm cho vùng lãnh hải quanh nước mình trở nên nguy hiểm đối với Trung Quốc trong trường hợp có chiến tranh. Động thái chủ chốt của Việt Nam thời gian gần đây là xây dựng một hạm đội tàu ngầm, vũ khí truyền thống của một lực lượng hải quân nhỏ đối mặt với một lực lượng lớn. Trong tình hình hiện nay, điều này rất có ích vì năng lực chống tàu ngầm của Trung Quốc hiện không mạnh. Một nước khác trong khu vực cũng có tranh chấp biển với Trung Quốc là Philippines. Nước này không có những bước đi rõ rệt như Việt Nam về sự chuẩn bị quân sự. Động thái chính của Philippines là việc đặt mua 12 phi cơ cường kích hạng nhẹ FA50 của Hàn Quốc vào năm 2014 để khôi phục lực lượng không quân phản lực. Ông Huxley cho biết quân đội Philippines có kế hoạch tốt về việc hiện đại hóa nhưng các chính trị gia lại có các ưu tiên khác. Chi tiêu quốc phòng của nước này là 1.1% GDP vào năm 2014, theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (Sipri). Có những dấu hiệu cho thấy sự lấn át của Trung Quốc có ảnh hưởng đến chính sách mua sắm quốc phòng của Singapore, mặc dù nước này không có biểu hiện công khai nào. Trong số các nước Đông Nam Á, Singapore hiện chi tiêu nhiều nhất cho quốc phòng, đạt mức 3,3% GDP năm 2014, mặc dù quy mô lãnh thổ chỉ bằng một thành phố và dân số ít hơn nhiều các nước quanh Biển Đông, trừ Brunei. Việc quân đội Singapore mạnh hơn mức cần thiết để phòng vệ trước Malaysia hay Indonesia làm cho học giả Sheryn Lee thuộc ĐHTH Macquarie, Sydney phỏng đoán có thể nước này phải tính đến nguy cơ dính líu đến một cuộc đối đầu với Trung Quốc. Ông Lee cho rằng có thể xảy ra tình huống Bắc Kinh ra lệnh cho Singapore ngừng ủng hộ Mỹ trong một cuộc đối đầu ở Biển Đông, và Singapore cần có đủ khả năng về quân sự để từ chối các yêu sách của Trung Quốc. Indonesia không có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông chồng lấn lên tuyên bố của Trung Quốc. Nước này đang hiện đại hóa lực lượng quân sự, nhưng theo ông Lee, việc làm của Indonesia chỉ là để “theo kịp các diễn biến ở Đông Nam Á”. Năm 2015, chỉ tiêu quốc phòng của nước này là 0,8% GDP. Malaysia, một nước khác có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, đang ngày càng quan ngại về hoạt động của Trung Quốc ở đó trong năm ngoái, theo viện IISS. Nhưng do kinh tế đất nước bị chậm lại và chính phủ ưu tiên cho chi tiêu trong nước “đã hạn chế nỗ lực phát triển các năng lực hải quân và không quân mà giới lãnh đạo quân sự thấy cần thiết để ứng phó với Trung Quốc”, viện IISS cho hay. Trong khi đó, quân đội Thái Lan vẫn tập trung vào tình hình trong nước kể từ khi họ nắm quyền kiểm soát đất nước năm 2014 và đã điều hành từ đó đến nay. Cả Thái Lan và Malaysia đều chi 1,5% GDP cho quốc phòng vào năm 2014. Theo: Aviationweek.com, iiss.org.
  6. Các giàn phóng hỏa tiễn phòng không loại HQ-9 của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc trong buổi diễu hành tại Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh ngày 3 tháng Chín, 2015 nhân kỷ niệm 70 năm sau chiến thắng kết thúc Thế Chiến Thứ Hai. (Ảnh: Greg Baker/AFP/Getty Images) Khi đưa hỏa tiễn phòng không vào vùng đảo tranh chấp tại Biển Đông trong tháng này, Bắc Kinh đã làm tình hình nóng hơn trong việc đối đầu với Hoa Kỳ và với phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế sắp tới đây sẽ làm tình hình căng thẳng hơn nữa. Các chiến thuật cứng rắn của Trung Quốc buộc Hoa Kỳ phải quyết định có nên lấy phản ứng mạnh hơn – ngay cả nếu có nguy cơ đụng độ quân sự – hay ngồi yên đó để Bắc Kinh tiếp tục tháo gỡ một trật tự thế giới đã giữ được 70 năm hòa bình và trù phú tại Châu Á. Sắp tới đây Tòa án Trọng tài Quốc tế tại The Hague sẽ ra phán quyết lần đầu tiên về tính pháp lý của các tuyên nhận chủ quyền của Trung Quốc, mà thường được biết qua bản đồ chín vạch chiếm gần hết Biển Đông. Với việc đưa các hỏa tiễn phòng không tầm dài đến đảo Woody chỉ làm tăng thêm tầm quan trọng của phán quyết sắp tới. Các chuyên gia nghĩ rằng phán quyết của tòa nghiêng về phía Phi Luật Tân, bên đưa đơn kiện năm 2013. Điều này sẽ buộc cả Washington và Bắc Kinh lấy chọn lựa: Hoa Kỳ sẽ phải quyết định là có nên và ở mức độ nào để tuân thủ phán quyết đó dùng lực lượng Hải quân Hoa Kỳ. Và Trung Quốc, vốn dĩ từ chối không tham gia vụ kiện, sẽ gặp một thử thách về điều mà họ tự cam kết là sẽ tuân theo luật lệ quốc tế. Phán quyết của tòa án sẽ đánh dấu một bước ngoặt khác trong việc tranh chấp trên Biển Đông. Một cựu viên chức của chính quyền Obama xin giấu tên đưa nhận định là “phán quyết đó sẽ bác bỏ tất cả thẩm quyền pháp lý và tinh thần của Trung Quốc hoặc sẽ không có tác dụng gì. Nếu tòa phán quyết là đường chín vạch vô nghĩa, thì áp suất sẽ đè lên phía Trung Quốc phải có phản ứng nào đó.” Hình vệ tinh trên đảo Phú Lâm hôm 3 Tháng 2 (trái) và hôm 14 Tháng 2 (phải). Nguồn ảnh: ImageSat International Trong tuần này, ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã đưa hệ thống hỏa tiễn phòng không đến đảo Phú Lâm (Woody Island), trong vùng quần đảo Hoàng Sa. Giới phân tích quốc phòng đánh giá rằng việc đặt hỏa tiễn này là “một leo thang quân sự đáng kể” và là cú phản công lại đối với hai chuyến công tác tự do hải hành của Hoa Kỳ vào năm ngoái và đầu năm nay. Một số chuyên gia đánh giá việc bố trí hỏa tiễn này là một khuôn mẫu của việc quân sự hóa trong tương lai trên các vùng đảo tranh chấp khác tại Trường Sa. Bước cờ mới của Trung Quốc đã khiến giới hành pháp Hoa Kỳ giận dữ và kêu gọi Hoa Kỳ phải có phản ứng mạnh hơn. Thượng nghị sĩ John McCain, Chủ tịch Ủy Ban Quân Đội của Thượng Viện Hoa Kỳ tuyên bố là các công tác tự do hải hành không đủ, Hoa Kỳ phải có những hành động khác để buộc Trung Quốc phải trả giá cho hành xử của họ. Bắc Kinh bố trí hệ thống hỏa tiễn này ngay trong thời điểm Tổng thống Obama chủ tọa buổi họp với 10 thành viên ASEAN. Trong buổi họp Thượng đỉnh vấn đề Biển Đông chiếm phần lớn các trao đổi. Tuy không nêu đích danh Trung Quốc, bản tuyên bố chung vào cuối Hội nghị kêu gọi tôn trọng trật tự luật lệ quốc tế, tránh quân sự hóa vùng tranh chấp; tôn trọng tự do hải hành. Ai là đồng minh? Cho đến nay các tuyên nhận chủ quyền và các hoạt động bồi đắp đảo của Trung Quốc đã đẩy các quốc gia Châu Á đến gần Hoa Kỳ hơn. Tokyo và Washington duyệt lại đường lối quốc phòng chung, và Nhật Bản đã vất lập trường chủ trương hòa bình sang một bên. Phi Luật Tân thì mời Hoa Kỳ trở lại sau 25 năm đuổi đi. Ngay cả Việt Nam, một quốc gia cộng sản với mối quan hệ giao thương chặt chẽ với Trung Quốc, cũng nhích lại gần với Washington và ngõ ý muốn mua vũ khí Hoa Kỳ để phòng chống lại Trung Quốc. Trớ trêu thay, một đồng minh của Hoa Kỳ trong vùng lại khiến cho phản ứng của Washington rắc rối hơn. Đài Loan, một đồng minh cốt cán từng mua hàng tỉ Mỹ kim vũ khí quốc phòng của Hoa Kỳ, lại có vẻ như sát cánh với Trung Quốc trong việc tranh chấp. Tổng thống Mã Anh Cữu đến thăm viếng đảo Taiping hồi tháng rồi, bất chấp những phản đối của Hoa Kỳ. Khi nhấn mạnh Taiping là một hòn đảo chứ không phải đá như Phi Luật Tân gọi như thế, Đài Loan làm cho hồ sơ vụ kiện của Phi Luật Tân yếu đi, và cung cấp lý do để Trung Quốc tranh cãi. Tuy nhiên Trung Quốc cũng chẳng sốt sắng với động thái của Đài Loan vì làm thế lại nhìn nhận Đài Loan là một đất nước có chủ quyền riêng. Giới chức Hoa Kỳ nghĩ là Đài Loan tuyên bố như thế trước khi có phán quyết của tòa chỉ để muốn nhấn mạnh đến những tuyên nhận chủ quyền của họ trong vùng tranh chấp. Dan De Luc, Keith Johnson - Foreign Policy (CTM)
  7. Đông Nam Á là một vùng đang có những chuyển biến. Sự trỗi dậy của Trung Quốc thành cường quốc trong vùng vừa thúc đẩy tăng trưởng cũng vừa có cạnh tranh, buộc các chính quyền phải tính toán. Tuy thế, tại phía đông của Đông Nam Á với đầy các chính quyền độc đảng thì các thay đổi chính trị thường chậm và khó thấy – và ít khi minh bạch. Những tuần lễ vừa qua minh chứng cho chiều hướng này tại Việt Nam và Lào, với các đảng cộng sản cầm quyền lâu năm trải qua các cuộc thay đổi lãnh đạo đầy gay gắt.Ở cả hai quốc gia, tranh luận giữa giới lãnh đạo đảng đặt trọng tâm vào việc làm cách nào tốt nhất để tận dụng sự tăng trưởng của Châu Á và hòa vào thế giới. Mối quan tâm chính là xử sự quan hệ với Trung Quốc. Trong cả hai quốc gia, tuy thế, các thay đổi lãnh đạo không đưa đến những thay đổi cơ bản về chiến lược hay hướng kinh tế. Thay vào đó, những thay đổi náo nhiệt tại các thủ đô này phần lớn đến từ ước muốn gìn giữ tính chính danh của sự cai trị độc đảng trong khi bối cảnh vùng và nội địa đang thay đổi nhanh chóng.Tranh luận tại Việt Nam: Không chỉ giữa Đông và TâyTại Việt Nam có một sự đấu đá chính trị hiếm có xoay quanh Đại Hội Đảng. Chức vụ chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội được thông qua êm thắm. (Họ sẽ được bầu chính thức trong cuộc bỏ phiếu biểu kiến của Quốc Hội vào tháng Năm). Bộ Chính Trị được tăng thêm ba thành viên để có thêm tiếng nói đại diện của các vùng và phe phái. Nhưng cuộc tranh giành chức vụ tổng bí thư, chức vụ quyền lực nhất, gây nguy cơ khủng khoảng chính trị tại Hà Nội. Rốt cuộc lại Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng biến chiêu không ngờ để lật Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và chiếm được ghế tổng bí thư ít nhất là thêm hai năm. Dư luận cho rằng kết quả này là phe bảo thủ thân Trung Quốc đã thắng phe cải cách thân Mỹ.Hà Nội quả thật có chia đôi về đối sách với Trung Quốc, nhưng những tranh cãi chính trị xoay quanh đại hội không dính gì nhiều đến lập trường chính sách. Dầu sau đi nữa, cả hai ông Trọng và Dũng đều có mối ràng buộc với Bắc Kinh, và ông Trọng phê chuẩn một số bước thân Tây Phương, khiến Bắc Kinh tức giận. Như Stratfor đã giải thích trước đây, nhu cầu địa chính trị của Việt Nam chống lại sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông cũng như giảm bớt sự lệ thuộc kinh tế buộc bất cứ lãnh đạo nào của Việt Nam đeo đuổi các hiệp ước kinh tế và an ninh với các cường quốc khác. Trong giới lãnh đạo mới, bốn người đầu đàn đã từng thăm viếng Hoa Kỳ trong vòng hai năm qua. Hai người trong Bộ Chính Trị có học vấn từ Hoa Kỳ.Trong khi đó, sự đồng thuận về nhu cầu hội nhập với kinh tế Tây Phương được nhấn mạnh nhiều lần trong các tài liệu về chính sách và trong các phát biểu suốt Đại Hội Đảng. Đáng lưu ý, Trung Ương Đảng gồm 200 thành viên, hậu thuẫn Việt Nam tham gia vào Hiệp ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Và từ sau khi đại hội, Hà Nội đã bỏ nhiều nỗ lực để phản bác dư luận cho rằng ông Dũng thất thế sẽ đe dọa hướng đi về kinh tế thị trường của Việt Nam.Thay vì thế, sự tranh giành quyền lực đến từ ước muốn của các bậc lão thành trong Đảng duy trì mô hình lấy quyết định tập thể, xoay quanh Bộ Chính Trị có khuynh hướng bảo thủ – một mô hình mà ông Dũng muốn thay đổi khi ra tranh chức tổng bí thư. Xa hơn, trọng tâm nằm ở chỗ lấy lại quyền kiểm soát tốc độ hòa nhập vào thế giới và cởi mở kinh tế của Việt Nam để ngăn ngừa chúng phá vỡ lợi ích của Đảng.Là mẫu người lôi cuốn, ông Dũng chủ trương cải cách kinh theo kiểu riêng. Ông dùng quyền lực trong tay và hệ thống đàn em để dựng lên một thế lực to lớn, cùng với nhiều mối ràng buộc chặt với giới đầu tư nước ngoài trong thời gian 10 năm làm thủ tướng. Nhưng Việt Nam thực ra do một ủy ban cầm quyền, một mô hình lập ra để ngăn ngừa sự phân chia ba miền. Và sự thăng tiến quá lẹ của một tay chơi chính trị như Dũng (đến từ miền nam trù phú) cùng với quyền lực gia tăng của nhóm miền nam trong Trung Ương Đảng, được xem là gây bất ổn cho thế quân bằng nội bộ được duy trì cẩn thận trong đảng. Sự vỡ nợ của Vinashin được gắn liền với Nguyễn Tấn Dũng.Hơn thế nữa, khi văn phòng thủ tướng và các cơ chế nhà nước khác trở nên mạnh hơn quyền của ông Dũng tạo ra mối lo là nhà nước sẽ biến hóa thành một khối quyền lực song hành với Đảng. Về mặt cải cách kinh tế, các tay bảo thủ lão thành xem ông Dũng là kẻ nhiệt thành với chủ nghĩa tư bản bè phái và có nguy cơ bị kẹt cứng trong mạng lưới bè phái đó – cũng như vai trò của ông Dũng trong một số vụ sụp đổ kinh tế nổi tiếng và các vụ tham nhũng làm tổn hại đến niềm tin của người dân vào Đảng. Về mặt quan hệ với Trung Quốc, ông Dũng bị xem là liều lĩnh, sẵn sàng hành động không cùng nhịp với quan điểm chung.Thành ra ông Trọng và các đồng minh bảo thủ dàn xếp một thỏa hiệp để ông Dũng về hưu nhưng duy trì tiếng nói của các phe và miền, để tránh khủng hoảng trong Trung Ương Đảng mà thoạt đầu bất bình với những đòn phép thủ tục ông Trọng dàn dựng để kềm chân ông Dũng. Trong tương lai gần, việc thu xếp này khá tốt cho sự ổn định và tiếp tục chính sách, ngăn ngừa các phe pháp giành giựt quyền lực khi 12 thành viên Bộ Chính Trị về hưu.Nhưng mô hình lấy quyết định tập thể của Việt Nam sẽ làm Hà Nội có nguy cơ tê liệt và chính sách rời rạc, khiến cho họ không thích ứng kịp thời với những đòi hỏi của tầng lớp quần chúng hiện đại hóa mau lẹ, với thành phần trẻ đông. Ngay cả dưới quyền của ông Dũng, cải cách kinh tế cũng chỉ lê lết tiến lên. Lấy thí dụ, chính quyền không đạt được mục tiêu tư hữu hóa gần 300 xí nghiệp quốc doanh trong năm 2015 (và trong số đó, không có bao nhiêu cổ phần tư được bán).Khó khăn này phần nào đến từ mô hình điều hành tập thể của Hà Nội, khi mà một số ít đảng viên cao cấp có quyền chặn đứng những chính sách bất lợi cho họ – vốn dĩ được hưởng lợi ích từ một hệ thống nặng nề bè phái và sự giàu đó đến từ việc bảo vệ các nhóm lợi ích. Mô hình này sẽ tiếp tục làm chậm lại việc hiện đại hóa Việt Nam, mặc dầu có sự đồng thuận về hướng đi của quốc gia này.(CTM)
  8. Câu này là của ông Trọng. Đành phải mượn để tăng thêm tính hài hước cho “mênh mông thế sự 28” thiên về “tả chân” một sự thật bẩn thỉu của cái gọi là “dân chủ phải có kỷ cương” để mong làm nhoè bớt đi sự nhày nhụa của một sự kiện. Xin trích nguyên văn những lời vàng ngọc của ngài Tổng nói trước báo giới quốc tế: “dân chủ đến thế là cùng, không có dân chủ gì hơn nữa… cho nên tại sao Đại hội lần này tôi nói ngay là một đại hội biểu thị tinh thần dân chủ, đoàn kết, kỷ cương, trí tuệ”. Thế rồi kịch bản Đại hội đã được “nghiệm thu” chỉ một ngày sau lễ bế mạc - hảo, hảo “hấn háo lơ” 挺好 - rất tốt. Và đây là lúc thực hiện: Gs Tương Lai Ngày 17.2.2016, cả nước tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ và đồng bào ta đã ngã xuống trong cuộc chiến chông Trung Quốc xâm lược tại biên giới phía Băc năm 1979. “Mặc dù diễn ra không quá lâu như các cuộc chiến chống Pháp, Mỹ những năm trước nhưng về tính chất, nó thậm chí còn ác liệt hơn… Có những trận đánh mà chiến sỹ ta hy sinh gần hết cả quân số một tiểu đoàn, bỏ lại thân xác nơi bãi mìn, khiến cho việc quy tập hài cốt vô cùng khó khăn”. Đó là lời của người trong cuộc, thiếu tướng-anh hùng Lê Mã Lương, trực tiếp chiến đấu tại mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) hiện vẫn day dứt với hình ảnh “ẩn trong những vách đá tai mèo dựng đứng, khô khốc kia là những mảnh xương cốt mà hàng ngàn đồng đội ông vẫn nằm lại để đổi lấy hòa bình cho đất nước”. [Theo PetroTime ngày 16.2.2016] Sáng sớm ngày 16.2.2016, Huỳnh Kim Báu gọi điện cho tôi hỏi thăm sức khoẻ và bảo: “Biết là anh đang bệnh, chắc là không ra được phải không”, tôi ậm ừ không trả lời. Vì quả thật, không hiểu mình có thể đến được cuộc mitting tưởng niệm dưới chân tượng Đức Thành Trần như những năm trước không nữa. Thế nhưng, đêm nằm không sao ngủ được. Làm sao có thể không đến? Trước mắt tôi cứ hiện lên hình ảnh cháu Ngọc, 19 tuổi, con trai ông Bền trên gác nhà tôi ở 9 Hàn Thuyên Hà Nội trước đây. Bắt tay và nhét vào túi áo của bộ quân phục mới toanh nhưng quá rộng với vóc dáng gầy guộc của cháu món quà mọn tiễn cháu lên đường nhập ngũ và biết chắc sẽ được điều lên phía bắc cách nay thế là 37 năm. Thế rồi mãi mấy tháng sau gia đình cháu nghe phong thanh cháu hy sinh, nhưng hình như gần cả năm mới có báo tử chính thức. Tin dữ nửa tin nửa ngờ ấy là từ câu chuyện kháo nhau lúc tham gia đào đắp phòng tuyến bên Sông Cầu chỉ đủ giục giã nhát cuốc đào đất chát chúa vội vã hơn chứ chưa đủ thấm sâu vào trong đầu khi mà trường hợp cháu Ngọc đâu có phải là hãn hữu! Có rất nhiều những cái tên khác thì thầm hoặc bật ra khá thường xuyên chen vào những nhát cuốc đào đất đắp phòng tuyến. Thế rồi năm 1997, khi lên chào ông Bền để vào Nam, tôi chỉ biết ngước nhìn lên tấm di ảnh của cháu mà lòng cuộn lên nỗi băn khoăn khó tả. Để hôm nay, 37 năm sau cái bắt tay dạo ấy, sao tôi lại xốn xang day dứt làm vậy khi nhớ lại khuôn mặt và ánh mắt của cháu Ngọc- mà thật ra dạo ấy- khi hàng ngày gặp cháu tôi chẳng có ấn tượng nào sâu đậm cả? Bát hương tưởng niệm tại tượng đài Lê Thái Tổ ngày 17.2.2016 đã “hoá”. Ám ảnh bởi ánh mắt của cháu Ngọc cũng chính là nỗi ám ảnh về những đôi mắt đã mãi mãi nhắm lại, những đôi mắt của cả một thế hệ tuổi trẻ đang dõi theo những người đang sống. Và rồi người ta đã tàn nhẫn phản bội lại sự hy sinh của Ngọc và hàng ngàn, hàng vạn những Ngọc khác, “ẩn trong những vách đá tai mèo dựng đứng, khô khốc kia là những mảnh xương cốt mà hàng ngàn Ngọc vẫn nằm lại để đổi lấy hòa bình cho đất nước”. Thế mà, để bám giữ cái gọi là “ý thức hệ XHCN” từng được cam kết bởi “mật ước Thành Đô”, bằng sự “lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng”, người ta đã hạ lệnh cho cả một dân tộc phải tuyệt đối câm lặng không được nhắc đến tên cuộc “chiến tranh biên giới” có thể làm mếch lòng thượng quốc, điều mà những Ích Tắc, Chiêu Thống xưa kia cũng không táng tậm lương tâm đến thế. Khốn nạn và nhẫn tâm hơn là người ta không ngần ngại chà đạp lên đạo lý dân tộc để quyết “chỉ đạo” đục bỏ tên trên bia kỷ niệm các liệt sĩ đã hy sinh nơi biên cương của tổ quốc. Cùng với việc làm táng tậm lương tâm đó, Ban Tuyên Giáo TW chỉ đạo gắt gao theo mệnh lệnh từ nơi trực tiếp nối đường dây nóng với Tập Cận Bình, để ngay khi đã buộc phải nói về cuộc chiến biến giới trên báo chí, thì trong sách giáo khoa, cuộc chiến tranh ấy chỉ được ghi lại bằng 11 dòng và 140 chữ trong sách giáo khoa lịch sử lớp 12! Chưa hết, nhằm làm vừa lòng quan thầy, họ đã quyết liệt dùng bạo lực để đàn áp khốc liệt những người yêu nước dám thắp hương tưởng niệm những anh hùng, liệt sĩ và đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược. Để tránh búa rìu của dư luận thế giới, người ta dùng côn đồ thay công an, cảnh sát để trấn áp người yêu nước, kể cả các cụ già và trẻ em. Người ta quên mất rằng, trong thời buổi internet nối mạng toàn cầu, mọi hành vi tội ác đều được phơi bày, thậm chí là ngay lập tức trước ánh mắt trực tiếp của công luận. Thì đấy, những videoclip quay cận cảnh việc lũ côn đồ ngăn không cho thắp hương hoặc rút bỏ, dập tắt những nén hương đã được thắp lên dưới chân tượng Đức Thánh Trần nhìn ra Bến Bạch Đằng của Sài Gòn lúc 9h20 ngày 17.2.2016. Xin hãy nhìn cho kỹ để thấm thía sự nhày nhụa của cái gọi là “dân chủ đến thế là cùng” của ông Trọng! Tôi cứ ngỡ như ánh mắt căm hờn của cháu Ngọc và những người đồng đội của Ngọc đang nhìn thẳng vào hành động mị dân với việc cũng thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ biên giới nhưng không dám gọi rõ tên kẻ thù đã xả súng vào họ là Trung Quốc xâm lược nhưng với cuộc chiến 9 năm thì gọi rõ là chiến tranh chống Pháp, rồi tiếp đó nói rõ là chiến tranh chống Mỹ. Nỗi sợ Tàu đã thấm vào tim óc rồi sao? Hay lối trí trá này là cách kín đáo biểu tỏ sự tri ân người đã giúp mình hạ bệ đối thủ chứ không phải là sự quay quắt quen thuộc nhằm lấp liếm những ý đồ đang dấu kín trong đầu? Lịch sử rồi sẽ rất sòng phẳng với câu trả lời giữa thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi. Không gì dấu được đôi mắt tin nhạy và công bằng, chính trực của nhân dân! Những người đã chết đang đòi hỏi những kẻ đang sống không được mượn cái chết của họ để toan tính những âm mưu. Vậy thì làm sao có thể đang tâm ngồi nhà trong những thời khắc nghiệt ngã làm xáo động lương tâm khi mà trong tôi, tiếng nói của lương tri, lương năng đang âm thầm giục giã. Quyết định sẽ đến kiểm tra mắt định kỳ chừng 20, 30 phút rồi đi thẳng đến tượng đài Trần Hưng Đạo thắp nén nhang tưởng niệm chiến sĩ và đồng bào, trong đó có Ngọc và nhiều chàng trai như Ngọc đã ngả xuống để cho tôi, con cháu tôi được sống, tôi gọi taxi. Vừa bước xuống đường, mở cánh cửa taxi thì có người níu lại. Gạt tay anh ta ra, tôi ngồi vào ghế taxi đóng cửa thì bị cản lại. Một anh chàng nét mặt không lấy gì làm bặm trợn nhưng giọng thì rất hách với chàng lái xe: “không được đi”. Mở cửa xe, tôi hỏi: “anh muốn gì? Công an à, giấy tờ đâu, lệnh khám xét đâu”. Hắn lùi lại ngoắc tay, hất hàm gọi Sáng, bí thư Đảng uỷ Phường vốn rất quen với chuyện này, nhưng lại rất thân tình “chú cháu” ngọt xớt với tôi, Tết vừa rồi đến thăm, quà cáp rất hậu hĩnh. Sáng tiến đến gần “Chú ơi, thôi chú tuổi cao rồi, chú về nhà nghỉ cho khoẻ chú ơi”. Tôi cười “Cậu không có câu nào mới hơn, hay hơn à? Câu này tớ nghe mãi chán lắm rồi, và cậu không thể cản được tôi với luận điệu cũ rich này đâu”. Đột nhiên Sáng đổi giọng : “Chú muốn đi nhưng không đi được. Mời chú lên nhà”. Tôi nổi đoá: “Thế tôi cứ đi thì cậu làm gì, đánh tớ à?”. Tôi kéo cửa xe đánh rầm, giục tài xế “Đi thôi”. Lập tức và rất chuyên nghiệp, hai cảnh sát giao thông rồ xe trước mũi taxi, quát tài xế xuống xe trình giấy tờ. Cậu lái xe cuống “Bác ơi, họ phạt cháu đấy, cháu không dám để bác đi đâu, bác lên xin cho cháu”. Tôi xuống xe, đến gặp tay cảnh sát giao thông “Tớ không xin gì cả, cậu phạt vì lý do gì, ghi rõ vào biên bản, phạt bao nhiêu tớ cũng trả, chỉ cần cậu ghi biên lai thật rõ ràng chính xác để tớ còn đưa cho Đinh La Thăng, vì sau chuyện này thế nào tớ cũng gọi cho ông Đinh La Thăng, Tân bí thư Thành uỷ, lại nguyên là Bộ trưởng Giao thông”. Tôi nói nhẹ nhàng, vả lại, ngoài 80 rồi, không đủ sức gào to lên như chàng trai cùng học một trường với ông tân Bí thư Thày uỷ giương cao vòng hoa tưởng niệm bị bọn côn đồ phá nát trước tượng đài Đức Thánh Trần “Đinh La Thăng đâu? Hãy nhìn đây. Đinh La Thăng, tân bí thư Thành uỷ Sài Gòn đâu, hãy trả lời cho dân đi” mà ai đó đã ghi rõ mồn một cả hình lẫn tiếng trong một đoạn video clip vừa được tung ngay lên mạng chỉ mấy chục phút sau đó rồi một clip khác ghi lại hình ảnh anh đang nêu lên những thắc mắc cần được trả lời cũng đã được đưa lên mạng. Tuy tôi nhỏ nhẹ, nhưng xem ra viên cảnh sát giao thông cũng là người am hiểu chuyện đời nên lùi lại, vẫy tay “tha bổng” cho lái xe. Nhìn thấy vẻ hoảng hốt tội nghiệp của chàng taxi, tôi gọi Sáng, bí thư Đảng uỷ Phường : “Tôi đi khám mắt đây, cậu ngồi vào xe cùng đi cho an tâm”. Bí thư Sáng dại dột tra vấn tôi, “chú đi khám mắt ở đâu, sao không vào bệnh viện Pháp Việt”, rồi lại đưa tay định giật cái túi giấy có logo của Phòng Khám trong tay tôi đựng bao kính và bệnh án mắt. Tôi nổi điên quát to “Cậu định làm gì? Khám xét à? Trời ơi, sao mày ngu thế, bí thư Đảng uỷ Phường mà lại đi làm một chuyện ngu xuẩn phạm pháp như vậy à? Ai cho phép các người làm chuyện bậy bạ này”? Lúc này số người tụ tập ngày càng đông, mà tôi lại quát rất to: “Dùng một lực lượng như thế này, vừa công an, vừa cảnh sát, vừa Đảng Uỷ Phường, Chi bộ khu phố, tổ trưởng dân phố để ngăn chặn một ông già 80 vì sợ ông ta hôm nay, 17.2, đi thắp hương tưởng niệm đồng bào và chiến sĩ bị bọn xâm lược Trung Quốc giết hại trong chiến tranh biên giới thì còn có đạo lý nào nữa không? Có phải đây là biểu tỏ cái “Dân chủ đến thế là cùng” của Tổng Trọng đã nói với báo chí quốc tế không? Ngần này lực lượng được huy động chỉ để ngăn chặn hành động của một ông già đang phải chống gậy đi chữa bệnh thì thuế nào của dân đóng cho xuể đây? Càng nói tôi càng hung, khó kiềm chế nỗi sự phẫn nộ đang dâng trào trong tim. Trước mắt tôi những diện mục bặm trợn hoặc đờ đẫn vô hồn đang ngăn cản tôi cứ nhoè dần đi để chỉ còn bừng lên ánh sáng ám ảnh đôi mắt của Ngọc nhìn tôi như trách móc, như giục giã. Mà không. Không chỉ của Ngọc 9 Hàn Thuyên của tôi ở Hà Nội. Mà là của hàng vạn Ngọc trên khắp sáu tỉnh biên giới phía bắc, hàng chục vạn, hàng chục triệu người đã nằm xuống để bảo vệ từng thước đất, từng góc biển, từng mảnh trời của Tổ Quốc trong hơn nửa thế kỷ. Và, xốn xang day dứt hơn nữa là ánh mắt của những người liệt sĩ bị đục bỏ tên mình trên tấm bia tưởng niệm đang đội mồ đứng dậy hỏi tội những kẻ phản trắc, táng tậm lương tâm gọi kẻ xâm lược từng bắn giết họ là đồng chí. Chẳng những thế còn trải thảm đỏ tại Hội trường Diên Hồng trong toà nhà Quốc Hội để mời tên cướp nước đến truyền ban thiên triều thánh chỉ! Không một vị đại biểu của dân nào, kể cả những người từng cao đàm khoát luận chứ không chỉ là những con khiếu hót làm cảnh mua vui cho những màn trình diễn nhàm chán dám biểu tỏ một chút sự phẫn nộ, cho dù chỉ một ánh mắt! Xương người đâu phải là gỗ mục, máu người đâu phải là nước lã rãi khắp, thấm đẫm trên từng thước đất của non sông đất nước, để rồi người ta dẫm đạp lên trong cuộc tranh giành quyền lực. Rồi vì quyền lực ấy mà cúi đầu trước toan tính nham hiểm của kẻ thù! Thấy giọng tôi càng nói càng to và bà con đường phố dồn lại càng đông, Sáng vội vã trèo lên xe giục tôi, “nào cháu ngồi cùng chú đến bệnh viện”. Không hiểu sao tôi bật ra lời phẫn nộ khá tàn nhẫn “Bây giờ thì tôi không cho anh ngồi cùng tôi nữa. tôi ghê tởm anh. Từ nay tôi cấm anh không được bước vào nhà tôi, nhiều lắm, tôi chỉ đồng ý để cô chi uỷ viên của Chi bộ đến thu đảng phí, còn các anh, tôi cấm cửa”. Tôi nhận ra sự ngu ngốc vì đã ngây thơ đưa tặng anh ta cuốn sách của tôi với lời đề tặng “để anh hiểu được những gì tôi muốn nói”. Uớc gì ai đó xé hộ tôi cuốn sách đang nằm đâu đó trong góc tủ nhà anh ta hoặc chính anh ta tức giận vì những lời sỗ sàng của tôi mà xé đi thì đỡ tức! Tôi nói với cô Chi uỷ viên “Cháu còn trẻ, hãy suy nghĩ bằng cái đầu của mình, đừng biến mình thành một công cụ cho những kẻ nắm quyền sai mình làm những việc mà chú biết cháu không muốn làm”. Sau đó liên tiếp tôi gọi ba chiếc taxi , thì rồi cả ba lần lượt bị hai xe của cảnh sát giao thông bắt dừng lại kiểm tra giấy tờ và nộp phạt. Biết rõ việc phi pháp tệ hại của bọn họ, nhưng tôi hiểu ra rằng, trên đất nước của cả rừng luật chỉ để làm cảnh, duy nhất luật rừng là phát huy đầy đủ công năng của nó sẽ không đủ thời gian để tranh cãi mà chắc chắn mọi tranh cãi về luật với họ là vô nghĩa, tôi rút ví lấy tiền rồi giúi vào tay ba chàng taxi để đỡ cho họ phần nào số tiền bị “làm luật” vì trót dại đã dừng xe đón tôi. Tôi xuống đi bộ vì biết rằng tất cả taxi chạy trong tuyến phố này đã bị phong toả hoặc hăm doạ. Nhưng rồi, “oan oan tương báo” hay sao mà loanh quanh thế nào tôi lại gặp Sáng. Thì ra, anh ta vẫn có nhiệm vụ theo dõi tôi, và tôi thì “chạy trời không khỏi nắng”! Phải có anh ta đi gọi taxi thì mới có xe dám chở tôi đến chỗ khám mắt với hai xe cảnh sát giao thông hộ tống, oai như cóc. Đâu chỉ có cảnh sát giao thông, kèm theo còn mấy chàng thường phục bặm trợn bám theo xe. Bấm cầu thang máy đi cùng với ông bác sĩ người Âu của phòng khám, các chàng biết tôi đi khám mắt thật nên chỉ đứng canh ở ngoài. Lấy gấp cái hẹn định kỳ rồi sẽ quay lại, tôi vội ra taxi đang đợi theo lời dặn của tôi. Tôi bảo xe chạy thẳng ra cầu Tân Thuận rồi lên đường Tôn Đức Thắng, đến tuợng Đức Thánh Trần, lúc này đã 9h40, cuộc mitting tưởng niệm 17.2 chắc cũng sắp tàn. Nhưng dù thế, tôi vẫn muốn có mặt để thắp một nén hương cho Ngọc, cho “những Ngọc” của đất nước đau thương này cho dù ở mỗi một điểm bị chặn, tôi cũng đã tranh thủ biểu thị lòng nhớ thương cháu Ngọc bằng cách gào to lên lý do người ta chặn tôi trước sự chứng kiến của một số người quan tâm dừng lại quan sát. Cũng như dạo năm 2013, tận dụng những lúc bị cảnh sát dừng xe “làm luật”, tôi tranh thủ gào to lên với đám đông bà con qua đường lý do tệ hại của chuyện thực hiện luật rừng này, một kiểu mini diễn thuyết bất đắc dĩ, để rồi lúc này ngồi trong xe mà ruột nóng như lửa. Đúng lúc ấy, cháu tôi nhắn qua Iphone: “nhân ngày 17.2, cháu vừa gửi ảnh ba cháu đang di thị sát chiến trường biên giới năm 1979 qua email! Mời mở xem ngay!”. Hình ảnh anh tôi, tướng Cao Văn Khánh, Phó Tổng Tham mưu trưởng tại chiến trường biên giới cách đây 37 năm như giục giã, đầu tôi nóng bừng, tim đập mạnh. Những ý tưởng tôi đã viết trong “Một nhân cách trí thức” in trên sách “Cảm nhận và suy tư” trào dâng trong tôi. Hình ảnh anh Cao Văn Khánh tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Sức mạnh về bản lĩnh và lòng tự trọng của một trí thức yêu nước biết vượt qua mọi thách thức. Người trí thức chân chính ấy đã tận lực cống hiến hết sức mình cho tổ quốc, có mặt tại những nơi trọng yếu và nóng bỏng nhất của cả ba cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn xâm lược Trung Quốc. Ông không hề và không thèm bận tâm đến những định kiến hẹp hòi chỉ biết đề cao công nông, coi thường và e sợ trí thức nên dường như hình ảnh của vị tướng của những trận đánh lớn nhất trong suốt cả ba cuộc chiến tranh chống xâm lược không có trên sách báo chính thống của Đảng và quân đội. Có lẽ đây là chuyến thị sát chiến trường cuối cùng của ông. “Đối với nhân dân Việt Nam, mỗi tấc đất của tổ quốc là thiêng liêng- tướng Khánh nói,- Kẻ thù sẽ không bao giờ có thể cướp được dù một mẩu đất của chúng tôi. Chúng tôi phải luôn luôn cảnh giác và sẵn sàng đánh trả bọn xâm lược, nếu như chúng không từ bỏ các âm mưu bành trướng”. Đó là tuyên bố của ông với các nhà báo quốc tế trong cuộc họp báo tại Câu lạc bộ Quốc tế ngày 19/3/1979 tại Hà Nội do ông-với tư cách là Phó Tổng Tham mưu trưởng chủ trì- lưu giữ trong một cuốn sách được viết bởi một người Nga! [Theo báo Đất Việt ngày 18.2.2016]. Năm sau, 1980 ông mãi mãi ra đi vì ung thư gan, hệ luỵ trực tiếp của nhiễm chất độc dioxin - như kết luận của giáo sư Tôn Thất Tùng- vì ông thường xuyên có mặt tại những vùng Mỹ rải chất độc màu da cam dày đặc nhất, đặc biệt là thời gian ông là tư lệnh Mặt trận Khe Sanh thay ông Trần Quý Hai bị bệnh. Và nhất là thời kỳ làm Tư lệnh Quân Khu Trị Thiên với chiến dịch Trị Thiên ác liệt nhất vào mùa hè 1972. Ngả đầu vào thành ghế, nhắm mắt lại, tôi nhớ lại nụ cười bình thản của ông trên giường bệnh năm ấy. Nụ cười của anh tôi và ánh mắt cháu Ngọc 9 Hàn Thuyên Hà Nội giục giã tôi đến thắp hương để cùng bạn bè tưởng nhớ tới họ. Bừng tỉnh vì tiếng chàng lái xe: “Bác ơi, tại sao mấy xe công an cứ bám riết xe cháu thế này”? Tôi cười hỏi lại, “thế cháu có sợ không”. Chàng trai trả lời, “Sợ gì. Cháu biết bác đi đâu rồi, việc ta, ta cứ đi, họ theo kệ họ”. Tôi thấy được an ủi, vơi bớt nỗi trĩu nặng trong lòng với câu nói của chàng trai trẻ. Thoáng lên trong đầu tôi ý nghĩ : chưa chừng, những tay bám theo tôi cũng là buộc phải chấp hành mệnh lệnh cấp trên chứ chắc họ cũng chẳng thích thú gì. Nhưng thế nào đến chỗ vắng, chúng cũng sẽ chặng taxi để “làm luật”, quyết buộc tôi phải trở về nhà. Và như vậy thật tội cho chàng trai lái xe đáng quý này. Một vài giây trôi qua, tôi hiểu mình cần phải tỉnh táo quyết định. “Thế nào chúng nó cũng chặn, thôi cháu rẽ vào Sky 3 đi”, tôi nói với lái xe, bác thì chúng chẳng dám làm gì hơn là chuyện chặn không cho đến chỗ mitting bắt xe phải quay về nhà, nhưng cháu thì thế nào cũng lôi thôi với chúng”. Tôi vào nhà Tống Văn Công. Mấy tay bặm trợn lại bám sát. Anh Tống Văn Công ngạc nhiên, tôi nói to: “tôi đến xin tị nạn chính trị đây, lịch sử đang lặp lại duyên phận giữa anh và tôi trong cuộc ngăn chặn đuổi bắt năm kia đó, đáng tiếc là lần này chỉ mình tôi chịu trận nên đến lôi anh vào cuộc cho vui, và cũng để xả hơi một tí vì mệt quá rồi”! Câu chuyện “tị nạn” khá lý thú kéo dài đến 2 tiếng đồng hồ. Có tiếng gõ cửa. Anh Công đứng dậy bước đến cửa, tôi nói to “Công an đấy, anh mời họ vào đây đi”. Một nét mặt bặm trợn ló vào, nhìn thấy tôi đang ngồi, hắn ta nói vội “Xin lỗi, cháu nhầm nhà”! Chắc chàng ta sốt ruột, lo bị khiển trách vì đã để lọt đối tượng, có khi bị hụt tiền thưởng không chừng! Tôi ngồi lâu quá, hắn ta sợ tôi vọt ra ngoài bằng một cách nào đó như lần trước tôi đã tuột khỏi vòng vây của “hệ thống chính trị” theo mô hình “chuyên chính vô sản được thu nhỏ ở cấp phường” để đến phát biểu dưới chân tượng Đức Thánh Trần vào ngày này năm ngoái. Thông cảm với nỗi khó nhọc và sự nhẫn nại đến khốn khổ của những “người anh em làm nhiệm vụ chuyên chính vô sản cấp phường”, vả chăng tôi cũng đã thực sự thấm mệt không còn ngồi được nữa mà phải nằm, nếu vậy thì khó cho gia chủ quá vì bữa cơm trưa đã đến và anh chị Tống Văn Công không thể giữ tôi lại vì biết rằng ở nhà, vợ tôi đang sốt ruột. Tôi từ biệt ra về. Cả “hệ thống chính trị theo mô hình chuyên chính vô sản cấp phường” vẫn kiên nhẫn bám tôi. Tôi chỉ cho anh Công vị bí thư Đảng uỷ Phường mặc áo ca rô sọc nâu đang ngồi ở vỉa hè đối diện với niềm ái ngại và thật sự cảm thông nỗi vất vả của anh ta. Một nhân vật mà tiếng nói có sức nặng nhất của một Phường với cả ngàn thần dân dưới quyền, anh ta đang phải quá vất vả vì một lão già 80 đi phải chống gậy, để chỉ muốn thắp một nén hương tưởng niệm những người đã chết dưới mũi súng của bọ Trung Quốc xâm lược để cho lương tâm đỡ day dứt. Và cũng chỉ thế thôi, sao người ta lại làm dữ đến vậy? Tôi có chút ân hận vì khi tức lên đã nặng lời với anh ta. Cũng chỉ vì miếng cơm manh áo và chút địa vị cỏn con có được nhờ cả một đời cam chịu và mẫn cán thực thi nhiệm vụ một quan cấp phường, anh ta phải nhẫn nhục làm vậy, chứ tôi ngờ rằng trong anh cũng không phải là không hiểu được việc mà anh ta phải làm, anh ta không hề thù ghét và khinh bỏ tôi khi quyết ngăn chặn tôi làm cái điều mà trong sâu kín của một tâm hồn chưa bị băng hoại, anh ấy tôn trọng việc làm của tôi. Thế nhưng cái đáng sợ cũng là chính ở chỗ này đây. Khi đã là một công cụ, thì việc phải tự đánh mất mình, tự vứt bỏ lương tâm bởi những thủ đoạn tuyên truyền dối trá và lừa bịp, biến cái giả thành cái thật trong suốt cả mấy thập kỷ đã tạo ra những rôbốt đa năng hành động theo những nút bấm từ đâu đó. Có thể từ cấp trên trực tiếp, và cũng có thể từ cấp cao nhất hoặc từ những nút bấm được thao tác tự bên ngoài. Nút bấm thì vô hồn, chỉ kẻ bấm bên trên cao thì luôn đầy đủ những toan tính. Vậy thì những toan tính gì đây cho cuộc trấn áp bằng được cuộc tưởng niệm 17.2 tại Sài Gòn ngày hôm qua? Ai toan tính và chỉ đạo cuộc này. Ai? Ai? Hay không ai như câu thơ của Nguyễn Duy mà tôi đã có lần trích dẫn? Liệu có phải đây là một nút bấm từ xa nhằm thực thi một đòn hiểm của môn võ Tàu bí truyền giương đông kích tây, làm rối loạn tình hình, gây mâu thuẫn căng thẳng giữa thế lực cầm quyền với quần chúng nhân dân, làm cho người ta quên đi mối hiểm nguy còn lớn hơn, hung hăng và trắng trợn hơn sự kiện giàn khoan 981 và việc bồi đắp các đảo nhân tạo. Đó là việc triển khai tên lửa đất đối không trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa của nước ta. Cũng có người nghĩ đến nút bấm được dấu kín của những người muốn tỏ lòng trung thành với người “đồng chí cùng ý thức hệ” đã hết lòng giúp đỡ, vạch kế hoạch hoàn hảo cho họ bảo vệ được cái ghế quyền lực? Và là để Tập Cận Bình an tâm rằng, cái dân tộc bất khuất quật cường suốt mấy nghìn năm chưa bao giờ chịu cúi đầu thiên triều, nay nhờ món võ Tàu thâm hậu với ngón bí truyền “lấy vô chiêu thắng hữu chiêu” đã khéo sử dụng chiêu “ý thức hệ” để nắm đầu thế lực cầm quyền, buộc họ vì miếng mồi quyền lực của giai cấp mới đang hình thành và củng cố, sẽ tiếp tục đẩy cả dân tộc phải chịu trầm luân trong thân phận nhược tiểu lạc hậu, làm con tốt đen trên bàn cờ theo toan tính của nước lớn? Những người này muốn nhắn gửi: Đồng chí Tập cứ an tâm, chúng tôi sẽ làm tất cả để nỗi lo lớn nhất của đồng chí không xảy ra : Tiến trình dân chủ hoá thành công ở Việt Nam sẽ là một cơn địa chấn tại Trung Quốc đang nghẹt thở trong chế độ toàn trị và sự ngiệp “đã hổ diệt ruồi” của “đồng chí”! Cũng lại có ý kiến cho rằng, ai đó muốn dằn mặt tân Bí thư Thành uỷ Sài Gòn Đinh La Thăng, đặt ông ta vào một thách đố tế nhị “nhả chẳng ra cho nuốt chẳng vào”? Đó là những ý tưởng nêu ra để bàn dân thiên hạ tham khảo và các bậc thức giả suy xét mà đưa ra những phân tích xác đáng để khẳng định chính kiến rõ ràng. Nhưng về cách nhìn nhận đơn giản thì chính ông Trọng đã từng tuyên bố rành rọt: “nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không”. Và rồi “Đại hội Đảng đã thành công rực rỡ”, người “không có tham vọng quyền lực”, bằng mọi mưu ma chước quỷ đã ngồi vào cái ghế quyền lực cao nhất nhờ vào chiêu bí truyền “không đụng độ” đấy thôi. Chuyện này thì từ thế kỷ XIII Trần Nhật Hiệu đã gạ gẫm vua Trần Thánh Tông với chiêu “nhập Tống” còn “lưu danh sử sách” về một tội đồ lịch sử không hơn không kém! Và để rồi hôm nay, người ta đang chỉ đạo thực thi điều ông Trọng nói “Dân chủ đến thế là cùng”. Vào tháng 5 sắp tới, có lẽ ông Trọng phải dàn xếp sao để có một buổi thuyết trình cho Tổng thống Obama về sáng tạo vĩ đại của ông “dân chủ gắn với kỷ cương” để ông ta truyền lại cho ứng viên của Đảng Dân chủ sẽ ngồi vào chiếc ghế ông ta đã ngồi như lời tuyên bố vừa rồi ở Baltimore! Tại sao không cơ chứ khi đúng là “không có dân chủ gì hơn nữa”, một tuyệt phẩm made in Việt Nam của Nguyễn Phú Trọng. Tôi được vinh dự là nhân chứng nhỏ nhoi nhưng nóng hổi của cái “không có dân chủ gì hơn nữa” nhày nhụa đó! Vì vậy, khi trên mạng nhiều nhân chứng sống động và mãnh liệt gấp bội phần đang thức tỉnh công luận trong và ngoài nước về nền dân chủ mà ông Trọng và bộ sậu của ông ta gầy dựng, tôi cũng mạo muội viết vài dòng để kịp đưa lên ĐIỂM TIN SỐ 75 này thay vì phải trả lời những cuộc điện thoại, nhắn tin và email hỏi thăm sau khi đọc email báo tin khẩn về tôi của Chu Hảo, bạn tôi. Vâng, chỉ thế thôi. Gs. TL (Tác giả gửi BVB) (Blog Bùi Văn Bồng)
  9. Theo một nguồn tin trong chính quyền CSVN cho hay, dự thảo bản Hướng dẫn công tác bầu cử 2016 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa ra có điểm thay đổi quan trọng nhất tại bước “Hội nghị cử tri, lấy ý kiến về ứng cử viên”. Theo đó, việc “đầu tố” sẽ bị nghiêm cấm triệt để. Nếu Hội nghị cử tri nào có hiện tượng đó, thì coi như buổi đó không hợp lệ, phải dừng ngay, hoặc hủy kết quả lấy ý kiến cử tri. Ông Nguyễn Sinh Hùng – chủ tịch Quốc hội còn nói rõ, “không thể để hội nghị cử tri thành buổi khiếu nại, tố cáo”. Nếu được thông qua, đây có thể được coi là một sự tiến bộ đáng kể trong hoạt động lựa chọn ứng viên vào danh sách tranh cử cuối cùng. Các ứng viên tự do có thể có được điều kiện tốt hơn để qua vòng lấy ý kiến cử tri tại địa phương nơi cư trú hoặc nơi làm việc, để vào vòng hiệp thương thứ ba ở cấp tỉnh / thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, tại vòng hiệp thương thứ ba, Hội đồng Bầu cử cấp tỉnh / thành phố Nhật Nam (SBTN)
  10. Thời gian vừa qua ở Việt Nam xuất hiện một trào lưu tự ứng cử đại biểu quốc hội nhân kỳ bầu cử Quốc hội tháng 5/2016. Đã có rất nhiều người tham gia tự ứng cử, với tư cách ứng cử viên độc lập. Một số khá đông người thuộc phong trào dân chủ cũng tham gia tự ứng cử. Sự tham gia tự ứng cử của những người thuộc phong trào dân chủ đã tạo nên một sự trao đổi, tranh luận, thậm chí tranh cãi trên diễn đàn mạng xã hội. Một số người cho rằng, việc tham gia là đúng, là tốt và cần thiết nhưng một số người ngược lại cho rằng không nên tham gia, hoặc tham gia không được gì, chỉ tạo tính chính danh cho quốc hội cộng sản... Một trong những nguyên nhân gây ra sự tranh luận đó là việc nhiều người quá kỳ vọng vào kết quả cũng như hiệu ứng của việc tự ứng cử của các ứng viên độc lập. Trong môi trường nhà nước độc tài toàn trị cộng sản, chúng ta cần hiểu rằng, đó là một hệ thống các cơ chế, định chế và phương thức vận hành khép kín để thực thi độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả những ứng cử viên độc lập, hoặc những người không phải đảng viên cộng sản ứng cử và trúng cử trước đây chỉ là số rất ít mà đảng cộng sản cho vào để làm ví dụ, để trưng bày và số người đó cũng phải trải qua sự kiểm duyệt rất gắt gao. Trong môi trường như vậy, việc kỳ vọng vào các ứng viên độc lập tự ứng cử là không có cơ sở. Tuy nhiên, vẫn cần phải trả lời câu hỏi: nên hay không nên, cần hay không cần những người thuộc phong trào dân chủ tham gia tự ứng cử? Câu trả lời là rất nên, rất cần và cá nhân tôi ủng hộ trào lưu tự ứng cử này. Chúng ta cần căn cứ vào mục tiêu của phong trào dân chủ để xác định sự cần thiết và ý nghĩa của trào lưu này. Một trong số các mục tiêu của phong trào dân chủ là nâng cao nhận thức của người dân nói chung, trong đó có cả những người đang tham gia vào phong trào dân chủ. Trước hết và trên hết, những người tự ứng cử đại biểu quốc hội đã thực thi quyền công dân của chính mình. Việc này được công khai và nó có tác dụng khuyến khích các công dân khác làm như vậy. Thực thi quyền công dân trong việc tự ứng cử không mới, nhưng lần đầu tiên trở thành trào lưu. Chính vì vậy, việc tự ứng cử của những người trong phong trào dân chủ là một hoạt động có hiệu ứng truyền thông lớn, tạo ra sự chú ý trong xã hội. Những người thuộc phong trào dân chủ, và những người dân quan tâm tình hình chính trị - xã hội sẽ theo dõi các diễn biến, xem và đọc các trao đổi, tranh luận xung quanh việc tự ứng cử. Sự phân tích thiệt hơn, phản biện và ủng hộ sẽ mở rộng sự hiểu biết của người dân. Đồng thời, bản thân những người tham gia tự ứng cử cũng cần tìm hiểu các thủ tục, quy trình, và các chương trình tranh cử. Có những điều mà dù là người đấu tranh dân chủ lâu năm, nếu không có cơ hội tìm hiểu cũng sẽ không biết được. Chính vì vậy, việc tự ứng cử thành một trào lưu là cơ hội để mọi người nâng cao nhận thức của mình trên nhiều khía cạnh. Một mục tiêu lớn nữa của phong trào dân chủ đó là lên án, tố cáo chế độ cũng sẽ được thực hiện trong toàn bộ quá trình hoạt động tự ứng cử đại biểu quốc hội kỳ này. Chúng ta biết rằng, đảng cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam chắc chắn không để cho những người tự ứng cử có cơ hội lọt vào danh sách bầu cử. Vì vậy, họ sẽ thực hiện tất cả các cách thức, bước đi và thủ đoạn để gây khó khăn, cản trở nhằm loại các ứng cử viên độc lập ra khỏi danh sách bầu cử. Khi làm những việc này, họ hầu như không tuân theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật mà sẽ lợi dụng, bóp méo và vi phạm các nguyên tắc pháp luật và quy định bầu cử. Chính vì sẽ xảy ra những sự việc ngăn trở một cách phi pháp và vô văn hóa đối với những ứng cử viên độc lập, nên những người tự ứng cử sẽ có cơ hội lên án, tố cáo nhà cầm quyền Việt Nam bằng những bằng chứng cụ thể, hùng hồn. Trong trường hợp không xảy ra việc dùng thủ đoạn loại bỏ các ứng cử viên độc lập, thì nhiều người tự ứng cử sẽ có khả năng thắng cử và cất cao tiếng nói tự do trong quốc hội cộng sản. Tóm lại, không quá kỳ vọng vào thành công và hiệu ứng của việc tự ứng cử đại biểu quốc hội nhưng trào lưu tự ứng cử hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của phong trào dân chủ. Chính vì vậy, trào lưu tự ứng cử là hoạt động rất đáng hoan nghênh và cần ủng hộ nhiệt thành./. Hà Nội, ngày 18/02/2016 N.V.B (RFA Blog)
  11. RFIĐăng ngày 18-02-2016 Sửa đổi ngày 18-02-2016 13:22 Một dân biểu Hàn Quốc đề nghị ám sát lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong UnREUTERS Mây đen đang trùm phủ bán đảo Triều Tiên kể từ khi chính quyền Bình Nhưỡng tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ tư và bắn tên lửa tầm xa. Tại Hàn Quốc, cuộc tranh luận về việc đối phó với Bắc Triều Tiên trở nên sôi động hơn, thậm chí kỳ lạ. Để tỏ thái độ phản ứng cứng rắn, quyết liệt, chính quyền Séoul đã cho đóng cửa khu công nghiệp Kaesong, nằm trên lãnh thổ Bắc Triều Tiên, chấm dứt dự án hợp tác liên Triều cuối cùng. Nhiều ý kiến cho rằng Séoul phải trang bị vũ khí nguyên tử và một dân biểu Hàn Quốc còn đề nghị ám sát lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un ! Thông tín viên RFI Frédéric Ojardias tại Séoul cho biết thêm bầu không khí ở Hàn Quốc trong những ngày này. Công luận Hàn Quốc sôi sục và thay đổi lập trường rất nhanh. Nhiều ý kiến trước đây bị coi là cực đoan, thì nay lại được nêu ra, đặc biệt là chủ đề vũ khí hạt nhân. Ngày càng có nhiều chính trị gia có thế lực trong đảng bảo thủ cầm quyền đề nghị chính phủ phải trang bị bom nguyên tử cho Hàn Quốc. Ví dụ, ông Won Yoo Choeol, lãnh đạo nhóm dân biểu thuộc phe đa số tại nghị viện Hàn Quốc tuyên bố là sau bốn vụ thử hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc không thể mãi mãi trông cậy vào ô hạt nhân bảo vệ của Hoa Kỳ. Đã đến lúc Hàn Quốc phải có vũ khí hạt nhân. Một số dân biểu khác, vốn được coi là ôn hòa, thì nay cũng đòi phải có bom nguyên tử. Một dân biểu đưa ra đề nghị kỳ lạ : Ám sát Kim Jong Un Một ví dụ khác cho thấy bầu không khí cực đoan trong cuộc tranh luận tại Hàn Quốc. Dân biểu Ha Tae Kyung thuộc phe đa số, đã thẳng thừng kêu gọi chính phủ phải cho ám sát lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un ! Theo chính trị gia này, lãnh đạo trẻ của chế độ Bình Nhưỡng là một « tên tội phạm » và do vậy, việc trừ khử Kim Jong Un không vi phạm luật pháp quốc tế, mà ngược lại, đây là cách thức duy nhất để xóa bỏ chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Trong bối cảnh căng thẳng này, nữ tổng thống Hàn Quốc Park Geun Hye đã ra lệnh đóng cửa khu công nghiệp liên Triều Kaesong. Quyết định này gây chấn động mạnh với hậu quả to lớn. Séoul cho rằng dự án Kaesong cung cấp khoảng 120 triệu đô la mỗi năm cho chế độ Bình Nhưỡng. Ngày 14/02, Bộ trưởng bộ Thống Nhất Hàn Quốc còn khẳng định là 70% lương của 55 000 công nhân Bắc Triều Tiên làm việc trong khu công nghiệp này đã bị tước đoạt để tài trợ cho chương trình hạt nhân của Bình Nhưỡng và mua các sản phẩm xa xỉ cho Kim Jong Un. Kaesong, chiếc cầu cuối cùng nối liền Bắc – Nam đã bị cắt đứt Nếu các tuyên bố của vị bộ trưởng Hàn Quốc là đúng, thì có nghĩa là Séoul đã vi phạm các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc trừng phạt Bắc Triều Tiên và tình trạng này đã kéo dài từ nhiều năm nay. Do vậy, hôm thứ Hai, 15/02, vị bộ trưởng này đã phải lên tiếng cải chính một cách ngoạn mục và nói rằng ông không có một bằng chứng nào về những điều ông vừa tuyên bố hôm trước. Lời thừa nhận này lại càng tạo cớ cho những người mong muốn duy trì dự án Kaesong, nơi duy nhất có người Nam và Bắc Triều Tiên cùng làm việc với nhau từ một thập niên qua. Họ nhấn mạnh là yếu tố quan trọng nhất để giữ ổn định trong quan hệ giữa hai nước Triều Tiên giờ đây đã biến mất. Hơn nữa, Bắc Triều Tiên có thể đưa khu vực này quay trở lại chức năng ban đầu của nó, tức là lại biến đổi nơi đây thành một căn cứ quân sự, chỉ cách Séoul, thủ đô Hàn Quốc, có 50 km. Liệu có nguy cơ đối đầu vũ trang giữa hai nước hay không ? Nếu xẩy ra xung đột trên quy mô lớn thì miền Bắc sẽ thua. Do vậy, người ta lo ngại là sẽ có những hành động khiêu khích mới, trên phạm vi hạn chế, giống như Bình Nhưỡng đã làm trong quá khứ. Bình Nhưỡng đối mặt với trục Washington-Séoul Giới quan sát nhận thấy Hàn Quốc lại lao vào một cuộc chạy đua vũ trang, bởi vì Séoul vừa cho đặt thêm một giàn tên lửa Mỹ Patriot và chấp nhận đặt trên lãnh thổ của mình hệ thống bắn chặn tên lửa của Mỹ, le THAAD. Quyết định này đã làm cho Trung Quốc và Nga phẫn nộ. Mặt khác, Séoul và Washington tuyên bố tiến hành các cuộc tập trận chung trên quy mô lớn chưa từng thấy vào tháng Ba. Hai đồng minh đang phô trương sức mạnh, nhưng động thái này, cho đến nay, đã không gây được tác động tức thời gì đối với lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un. Thậm chí, lãnh đạo họ Kim còn đe dọa lại tiến hành các vụ bắn tên lửa, và cáo buộc « các lực lượng thù địch chưa bao giờ lại điên cuồng như hiện nay » tìm cách « bóp chết » Bắc Triều Tiên.
  12. Gs Jonathan London ‘Im lặng cũng là một lửa chọn, nhưng…’ (bài ngắn gọn) Hôm qua viết bài mà hỏi làm sao riêng phía Việt Nam chưa có một tuyên bố nào đối với tin về những tên lửa mà Bắc Kinh đã đặt trên đảo Phu Lâm, Hoàng Sa. Suy nghĩ thêm một chút thấy rất có thể là tin này không mới đối với Hà Nội hoặc ít nhất là một kịch bản đã chờ đợi từ lâu. Như thế, sự im lặng cũng có thể được xem là lựa chọn có lý. Tôi chưa chắc là lựa chọn đấy là tốt nhất nhưng cũng hiểu rằng, nhìn một cách ‘khách quan’ vị trí của Việt Nam là hết sức khó. Song, tôi vẫn giữ lập luận rằng Việt Nam (tức chính quyền) phải tìm cách để nâng cao mức hiệu quả của họ trên chính trường quốc tế đối với vấn đề Biển Đông và cũng nên nói rõ cho người dân Việt Nam rằng, là một nước có chủ quyền, Việt Nam cũng có những quyền chính đáng của mình và cả nước sẽ kết hợp với những nước khác mà tôn trọng luật pháp quốc thế để bảo vệ những quyền chính đáng ấy. Hơn nữa, cũng nên có thông điệp về những nguy cơ của quốc gia chủ nghĩa cực đoan và những lý do đất nước Việt Nam phải có khả năng để đối phó với những thách thức trên biển một cách hiệu quả, thống nhất, ôn hòa, an toàn, đoàn kết. Trong trường hợp ngày càng có khả năng cao hơn mà từng có một sự cố nào đó, ‘ta’ (xin phép) không muốn có việc như năm 2014, khi đã thấy một phản ứng mà dù đúng hay sai đã bị thế giới đánh giá khá là hỗn lọan. Để đối phó với những thách thức lớn mà Bắc Kinh đang gây ra phải có khả năng để ứng xử một cách ôn hòa, văn minh, kịp thời, hiệu quả, cả trong nước, và trên chính trường quốc tế nữa. Trong bối cảnh này, những tranh cãi liên quan đến luật biểu tình mà đang tiếp diễn khá là quan trọng. Biết trong nước có những quan điểm chính trị khác nhau, ngay cả trong bộ máy. Có ý kiến khác là bình thường thôi. Song, để có một Việt Nam mạnh, dân phải có khả năng để bày tỏ tính yêu nước (không cực đoan) của họ một cách ôn hoà, an toàn, văn minh. Làm thế cũng sẽ giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền và nâng cao danh tiếng trong phạm vi quốc tế. Thế thôi. JL (Blog Xin Lỗi Ông)
  13. Kính Hòa, phóng viên RFA 2016-02-18 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Các đại biểu giơ thẻ hội viên tại lễ bế mạc Đại hội đảng toàn quốc lần thứ 12 hôm 28 tháng 1 năm 2016. AFP photo Ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó trưởng ban tuyên giáo trung ương của đảng cộng sản Việt Nam khóa 11, là người có nhiều phát biểu trước và sau đại hội đảng lần thứ 12 vừa qua về những cải cách và kiểm soát tham nhũng ở Việt nam. Qua Email, ông trả lời Kính Hòa của đài Á châu tự do về một số vấn đề liên quan đến kiểm soát quyền lực và bầu của Quốc hội tới đây. Kính Hòa: Vấn đề nhân sự vừa rồi được tuyên bố hoặc là đề cập một cách chính thức sớm hơn nhiều so với những lần trước. Liệu sắp tới đây đảng cũng có thể công khai chuyện nhân sự từ những hội nghị Trung ương trước Đại hội Đảng? Ông Vũ Ngọc Hoàng: Tôi cho rằng, tới đây, đảng hoàn toàn có thể và nên công khai chuyện nhân sự từ những hội nghị Trung ương trước đại hội, giống như đã làm trong dịp đại hội lần thứ 12 vừa rồi. Kính Hòa: Sắp tới đây có tăng cường sự tham gia của người dân vào lĩnh vực truyền thông hay không? Ông Vũ Ngọc Hoàng: Tôi nghĩ chắc chắn có tăng cường. Rất cần thiết như vậy. Kính Hòa: Đảng đã đề cập rất nhiều đến chuyện kiểm soát quyền lực, một Bộ trưởng đề cập thẳng ở đại hội chuyện độc lập giữa ba nhánh chính của nhà nước. Vậy cụ thể sẽ có gì mới trong việc kiểm soát quyền lực sắp tới? Ông Vũ Ngọc Hoàng: Kiểm soát quyền lực là việc nhất thiết phải làm. Đại hội 12 vừa rồi đã khẳng định như vậy. Trong đó, theo tôi nghĩ, cần thiết và quan trong hàng đầu là việc phân quyền giữa 3 nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp cho hợp lý nhằm bảo đảm độc lập tương đối và thực hiện kiểm soát quyền lực lẫn nhau để hạn chế tối đa các sai sót hoặc sớm phát hiện và sớm điều chỉnh khi có sai, bảo đảm xử dụng quyền lực đúng quyền hạn và đúng mục đích, không lạm quyền, không lộng quyền, không để tha hóa quyền lực. Ngoài ra, sẽ còn những quy định khác nữa – Tôi nghĩ vậy. Kính Hòa: Một nhân sĩ thường phản biện các chính sách ở Hà Nội là Tiến sĩ Quang A ra ứng cử làm đại biểu Quốc hội cho khóa tới. Liệu những người như ông A sẽ có may mắn hơn trong kỳ bầu cử khóa tới so với những người ra ứng của tự do các khóa trước không? Ông Vũ Ngọc Hoàng: Tôi chưa biết sẽ có những ai. Nhưng tôi nghĩ, nếu có những người ứng cử tự do là đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp tới đây thì đó là việc rất bình thường, xét theo nghĩa nào đó là tốt. Việt Nam đã có những tiến bộ về dân chủ, và sẽ ngày càng tiến bộ hơn nữa, cần phải vậy, tất yếu phải vậy! Còn đối với các ứng cử viên, dù tự ứng cử hay có một tổ chức giới thiệu, thì về cơ hội tôi nghĩ là như nhau.
  14. “Đừng tin những gì bạn nghe và chỉ tin một nửa những gì bạn thấy” (Benjamin Franklin) “Quá độ” hoặc “chuyển đổi” (transition) là khái niệm thay đổi tuần tự, từ một hệ thống này sang một hệ thống khác. Hầu hết các quốc gia (hay doanh nghiệp) chuyển đổi đều phải trải qua quá trình này. Đó là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển, nhưng cũng đầy ngộ nhận, có thể dẫn đến sai lầm và tổn thất, nếu cực đoan và duy ý chí, không chịu nghiên cứu để làm theo quy luật. “Ngộ nhận” (misconception/misperception) là trạng thái hồ đồ, nhầm lẫn trong tư duy, dẫn đến hành động sai. Tại sao phải bàn về ngộ nhận? Bởi vì người Việt ngộ nhận quá nhiều và quá dễ. Câu chuyện về hơn 300 sinh viên Việt Nam tại Australia bị một cô gái trẻ trên facebook lừa gần 400.000 AUD vì mua vé máy bay giá rẻ trong dịp Tết vừa qua, đáng để suy nghĩ. Phải chăng người Việt hay ngộ nhận nên dễ bị lừa. Ngộ nhận như cái bẫy mà nhiều người hay mắc phải, dù phải trả giá nhưng vẫn tiếp tục ngộ nhận, như một căn bệnh tâm thần mãn tính khó chữa. Tại sao khó chữa? Bởi vì ngộ nhận như cái bẫy ảo nằm trong tâm thức của ta (state of mind). Có lẽ không ai gài bẫy cả, mà chính ta tự gài bẫy mình. Làm thế nào để tránh? Nó không giống như lái xe tránh cái ổ gà hay cái hố tử thần trên đường. Ngộ nhận ẩn tàng trong tâm thức như một bản năng khó thay đổi, như những góc mù che khuất tầm nhìn, làm ta vô minh, lú lẫn (dù có tài giỏi đến mấy). Vì vậy, muốn tránh ngộ nhận, phải giác ngộ. Nói theo nhà Phật là phải vô chấp, vô ngã, để không vô minh. Hãy điểm qua vài ví dụ điển hình. Ngộ nhận & chuyển đổi Sau chiến tranh (1975), Việt Nam phải chuyển đổi từ thời chiến sang thời bình, từ hai miền khác nhau về chế độ chính trị thành một đất nước thống nhất. Nó đòi hỏi năng lực quản trị chuyển đổi đầy khó khăn trong giai đoạn hậu chiến. Người Đức đã làm rất tốt, nhưng người Việt đã làm rất tồi. “Bên thắng cuộc” đã say sưa với chiến thắng nên ngộ nhận rằng đã thắng được Mỹ thì có thể làm bất cứ chuyện gì, rằng xây dựng kinh tế không khó bằng chiến tranh, nên ai làm cũng được. Họ không hiểu rằng đó là hai chuyện khác nhau, phải đổi mới tư duy và hành động, với tầm nhìn mới. Đáng nhẽ cả hai bên (thắng cuộc và thua cuộc) đều phải “học tập cải tạo” một cách nghiêm túc để hòa giải và bắt tay với nhau để tái thiết đất nước. Nhưng đáng tiếc là cực đoan và hận thù đã xô đẩy cả hai phía Việt Nam tiếp tục cuộc chiến không đáng có, trong khi kẻ thù truyền kiếp lợi dụng thời cơ chiếm mất Hoàng Sa và dùng Khmer Đỏ gây ra xung đột mới. Đơn giản vì Trung Quốc không muốn một nước Việt Nam thống nhất và hùng mạnh, tuột khỏi vòng tay bá quyền của họ. Thất bại về bình thường hóa với Mỹ năm 1978 (trong gang tấc) là một thất bại về tầm nhìn và tư duy chiến lược thời hậu chiến, dẫn đến hệ quả khôn lường. Việt Nam lại rơi vào vòng xoáy chiến tranh, mắc kẹt vào quá trình phân cực và xung đột của tam giác Mỹ-Trung-Xô, do ngộ nhận về bạn thù và ưu tiên chiến lược. Đó là một trường hợp xử lý “sai một ly đi một dậm”. Thống nhất đất nước là tất yếu, nhưng quản trị việc hội nhập hai miền thế nào mới là hệ trọng. Cực đoan và duy ý chí, với cái đầu nóng, nhưng thiếu năng lực quản trị, có thể phung phí cơ hội hội hiếm có và nguồn lực khổng lồ của đất nước. Kết cục hôm nay là hệ quả hôm qua. Lịch sử có thể lặp lại với những sai lầm mới, nếu vẫn ngộ nhận. Trong bối cảnh hiện nay (sau Đại hội Đảng và trước khi Mỹ có Tổng thống mới) không nên ngộ nhận trông chờ quá nhiều vào Sunnylands Summit (15-16/2/2016) hay chuyến thăm của Tổng thống Obama (5/2016). Nhưng cũng đừng coi nhẹ sự kiện Trung Quốc đưa tên lửa HQ-9 ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Các sự kiện này đều liên quan đến nhau, và cùng một bàn cờ đang chuyển động, trong đó Trung-Mỹ là hai đối thủ chính, còn Việt Nam và ASEAN là các bên liên quan đến tranh chấp, nhưng lại bất lực. Không phải chỉ vì Mỹ vẫn “ngập ngừng”, mà còn vì Việt Nam và ASEAN không đủ mạnh và đoàn kết. Trong khi cơ chế an ninh ARF trở nên lạc hậu, thì AEC (Cộng đồng Kinh tế ASEAN) vẫn còn quá mới. Từ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội… Chúng ta đã nghe câu chuyện “quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội” từ rất lâu rồi, từ ngày còn cắp sách đi học. Lúc đó mọi người hiểu một cách mơ hồ về câu chuyện quá độ như một huyền thoại và nhắm mắt tin theo (vì chẳng ai phản biện). Rồi câu chuyện ngày càng khó hiểu hơn với những khái niệm tù mù như “bước đi ban đầu của thời kỳ ban đầu của giai đoan quá độ…”. Lúc đó chắc bộ trưởng Bùi Quang Vinh còn quàng khăn đỏ, nên chưa thể nói được rằng “làm gì có cái thứ đó mà đi tìm…” Nói như vậy để thấy quá trình giác ngộ để “vượt qua ngộ nhận” về một khái niệm đơn giản nó phức tạp đến thế nào. Tôi nhớ cách đây hơn một thập kỷ, giáo sư Nhật Kenichi Ono (Viện Grips) đã có một nhận xét thú vị, “Lần đầu tiên đến Việt Nam, tôi rất ấn tượng thấy các bạn Việt Nam say sưa tranh luận về những vấn đề hệ trọng của đất nước. Năm năm sau trở lại Việt Nam, tôi vẫn thấy các bạn say sưa tranh luận về những vấn đề hệ trọng đó…” Có lẽ đến bây giờ chúng ta vẫn còn say sưa tranh luận về những vấn đề đó. Chỉ có khác là các chuyên gia kinh tế nay gọi điều đó là “chém gió”… Một chuyên gia nước ngoài khác (tôi không nhớ tên) có một nhận xét dí dỏm (mà chị Phạm Chi Lan hay trích dẫn) là Việt Nam thuộc loại nước “không chịu phát triển”. Quá độ thì hữu hạn, nhưng ngộ nhận thật vô hạn. …Đến định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Sau những cố gắng đổi mới tư duy kinh tế, câu chuyện “quá độ” đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội (bị thất bại) đã được thay thế bằng câu chuyện “chuyển đổi” sang kinh tế thị trường (tức Chủ nghĩa Tư bản). Đó là một bước tiến dài để chuyển đổi tư duy kinh tế, tuy mất đứt mấy thập kỷ, nhưng ta vẫn kiên trì “Định hướng Xã hội Chủ nghĩa”. Kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa là một “sáng tạo độc đáo” không giống ai. Các nhà kinh tế (kể cả được giải Nobel) cũng chẳng hiểu nổi mô hình này là cái gì. Tại Đại hội Đảng XII, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh (sắp nghỉ hưu) đã kêu gọi “thay đổi thể chế đồng bộ”, và cách đây mấy ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (cũng sắp nghỉ hưu) có một bài dài kêu gọi “thay đổi thể chế”. Nhưng nghị quyết Đại hội Đảng XII vẫn kiên trì “định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Trong vòng xoáy khủng hoảng, hàng trăm ngàn doanh nghiệp đã bị phá sản và chết lâm sàng, do ngộ nhận về kinh tế thị trường và mắc kẹt vào định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nay tham gia sân chơi WTO và TPP, nhưng doanh nghiệp Việt nam vẫn mơ hồ về hội nhập, ngộ nhận một cách “vô hạn” về một khái niệm chuyển đổi “hữu hạn”, biến câu chuyện đơn giản thành nan giải, với cái giá phải trả “vô hạn”. Sự ngộ nhận đó đã dẫn đến hệ quả tai hại, làm Việt Nam tụt hậu vài thập kỷ so với các nước láng giềng, trong khi nước láng giềng khổng lồ phương Bắc đang muốn chúng ta trở lại thời “Bắc thuộc”. Nhưng điều trớ trêu là chính ông bạn khổng Trung Quốc cũng đang mắc kẹt vào cái bẫy chuyển đổi do ngộ nhận, và đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ của thể chế chính trị độc đảng đã lỗi thời, mà chính lãnh đạo cao nhất của họ (Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã phải công khai thừa nhận. Tại sao chúng ta vẫn kiên trì ngộ nhận theo đuổi mô hình đó và đi theo đường mòn đó, trong khi chính họ cũng đang tìm cách “thoát Trung”. Lựa chọn chính sách này dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nào? Theo báo Đại Kỷ Nguyên (16/2/2016) và Tạp chí Tranh Minh (Hong Kong), tại Hội nghị TƯ 2 của Đảng CSTQ (29/10/2015) , Tập Cận Bình đã cảnh báo về “6 nguy cơ lớn của Đảng” và nhấn mạnh, “cần dũng cảm đối diện sự thực, thừa nhận việc Đảng thoái hóa biến chất và đang đứng trước nguy cơ mất Đảng”. Vương Kỳ Sơn (bí thư Ủy ban Kỷ luật TW) cũng công khai thừa nhận (tại cuộc họp thứ 52 của UBKLTW) “đang xuất hiện vấn đề lớn” trong thể chế không thể chữa được, khiến Đảng đi vào đường cùng của sự sụp đổ, “Đấy là sự thực, không phải việc ai đó có chịu thừa nhận hay không”. Theo Ban Tổ chức Trung Ương TQ (tính đến 25/7/2015) đã có 209.920.000 người tuyên bố bỏ Đảng và các tổ chức chính trị của Đảng (như Đoàn Thanh niên Cộng sản). Chuyển đổi bị mắc kẹt Giáo sư người Mỹ gốc Hoa Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) đã nghiên cứu mô hình phát triển của Trung Quốc và đưa ra lý thuyết cho rằng “Trung Quốc đã bị mắc kẹt trong quá trình chuyển đổi do những cải cách kinh tế và chính trị nửa vời”. Minxin Pei kết luận rằng vì Đảng Cộng sản phải kiểm soát nền kinh tế để tồn tại về chính trị, nên chủ thuyết quá độ tiệm tiến (gradualism) cuối cùng sẽ thất bại” (Minxin Pei, “China’s Trapped Transition: The Limits of Development Autocracy”, Harvard University Press, 2006). Theo Minxin Pei, để duy trì chế độ chính trị, Tập Cận Bình đang áp dụng chính sách cai trị bằng sợ hãi (rule of fear), nhằm thâu tóm quyền lực dưới chiêu bài chống tham nhũng, làm xã hội Trung Quốc chìm trong không khí khủng bố như thời Cách mạng Văn hóa. (Minxin Pei, “China’s Rule of Fear”, Project Syndicate, February 8, 2016). Một hệ quả cụ thể của chiến dịch đả hổ là Lệnh Hoàn Thành (em trai Lệnh Kế Hoạch) đã chạy sang Mỹ tị nạn, đem theo nhiều bí mật quốc gia, như một “quả bom nổ chậm” có sức công phá không kém gì vụ Vương Lập Quân chạy vào Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Thành Đô (2/2012). Theo các nhà kinh tế, không phải chỉ có quả bom nổ chậm về chính trị, mà bong bóng kinh tế (đặc biệt là bong bóng bất động sản) là một quả bom nổ chậm hàng ngàn vạn tấn đang chờ kích hoạt. Vạn lý Trường thành cũng không thể ngăn được dòng người (và vốn) tháo chạy ồ ạt (như bỏ phiếu bằng chân). Quyền lực cũng bị mắc kẹt Khi Nguyễn Bá Thanh chuyển từ Đà Nẵng ra Hà Nội để làm Trưởng Ban Nội chính (đầy quyền lực) có thể ông ấy quá tự tin và ngộ nhận về trò chơi quyền lực mới, vì chống tham nhũng nguy hiểm như săn hổ dữ. Nguyễn Bá Thanh có thể làm mưa làm gió tại Đà Nẵng (như lãnh chúa), nhưng ra Hà Nội ông ấy có thể bị vô hiệu hóa và mắc kẹt vào một cơ chế quyền lực khác mà ông ấy không làm chủ. Thuyên chuyển quyền lực (power transition) là một việc không đơn giản. Nguyễn Bá Thanh đã hấp tấp tuyên bố “hốt liền” trong khi chưa chuẩn bị các điều kiện cần và đủ (về luật chơi và người chơi). Tập Cận Bình đã đưa Vương Kỳ Sơn vào ghế thường trực BCT trước khi bổ nhiệm ông này làm bí thư Ủy ban Kỷ luật Trung ương. So với Nguyễn Bá Thanh, Vương Kỳ Sơn chuyên nghiệp hơn nhiều, cả về con người lẫn bộ máy quyền lực. Không biết Đinh La Thăng có học được bài học quá đắt của Nguyễn Bá Thanh để tránh cái bẫy ngộ nhận hay không, mặc dù cái ghế Bí Thư thành phố HCM không nguy hiểm bằng cái ghế Trưởng ban Nội chính. Nhưng dù sao, đặc điểm cơ chế quyền lực (nổi và chìm) tại Sài Gòn cũng khác Hà Nội. So với Hoàng Trung Hải, nhiệm vụ của Đinh La Thăng khó khăn phức tạp hơn nhiều, như một con dao hai lưỡi, rất dễ mắc kẹt vào cái bẫy chuyển đổi quyền lực (trapped transition). Sở hữu toàn dân Một ngộ nhận lớn khác là quyền “sở hữu toàn dân” (đặc biệt là về tài nguyên ruộng đất). Khái niệm tù mù về quyền sở hữu toàn dân nghe có vẻ hợp đạo lý Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng thực ra đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm lợi ích thân hữu thao túng và chiếm đoạt của công biến thành của tư, làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Những cải cách nửa vời về sở hữu ruộng đất đã làm cho xã hội bị mắc kẹt trong một cái bẫy nguy hiểm, như một quả bom nổ chậm chưa được tháo ngòi. Sở hữu toàn dân là nguồn gốc làm cản trở sự phát triển của đất nước qua nhiều thập kỷ, dưới mức tiềm năng, làm cho Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước láng giềng. Nếu không đổi mới về thể chế kinh tế và chính trị, nếu không cải cách triệt để về quyền sở hữu ruộng đất, thì không thể hóa giải được mâu thuẫn xã hội, và Việt Nam không thể phát triển bền vững. Càng yếu kém và lệ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, thì Việt Nam càng khó giữ độc lập và chủ quyền. Chính sách mị dân Nhân dân là một danh từ được các nhà chính trị (của mọi thời đại) nhắc đến nhiều nhất để mị dân (dù họ có phải dân túy hay không), với những khẩu hiệu nghe sướng tai như “Chính phủ Của dân, Do dân, Vì dân” (Abraham Lincoln), mà người Việt hay nhắc đến (như của chính mình). Trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (Thomas Jefferson) mà cụ Hồ đã trích dẫn trong Tuyên Ngôn Độc lập của ta, cũng nhấn mạnh dân quyền, “Mọi người sinh ra đều bình đẳng” (All men are created equal…). Tại Việt nam, danh từ nhân dân được sử dụng một cách “lạm phát”, với nhiều vận dụng độc đáo như “quân đội nhân dân”, “công an nhân dân”, “ủy ban nhân dân”, “hội dồng nhân dân”, tòa án nhân dân”, … Cái gì cũng “nhân dân” (chỉ có một ngoại lệ là “ngân hàng nhà nước”). Những người cầm quyền ở Việt Nam luôn chú ý đến “dân vận”, thường xuyên vận dụng các cụm từ mị dân như, “lấy dân làm gốc”, “trung với nước hiếu với dân”, “uống nước nhớ nguồn”… nhất là khi phải huy động sức dân cho chiến tranh, hay đóng góp tài chính… Nhưng khi dân phản đối về một vấn đề gì đó (như Trung Quốc) họ thường bị trấn áp như “thế lực thù địch” hay “phản động”. Như vậy thì làm sao “thoát Trung”? Khủng hoảng lòng tin Ngay từ thời “cải cách ruộng đất”, nhiều người có công với cách mạng đã bị đấu tố và xử tử oan sai, do ngộ nhận và cuồng tín. Bây giờ mấy từ “dân oan” hay “khiếu kiện” đã trở thành những từ khóa được nhắc đến nhiều nhất. Chính quyền ngày càng xa dân, đối xử bất minh với dân, lời nói không đi đôi với việc làm, nên những khẩu hiệu mị dân trở nên vô nghĩa và phản cảm (như loa phường). Chính quyền ngày càng mất lòng dân, nên phải đối phó và nói dối. Lòng tin một khi đã mất rất khó lấy lại. Không phải chỉ có bên Trung Quốc mà ngay tại Việt Nam, nhiều đảng viên trung kiên đang bỏ đảng. Ngộ nhận là một tai họa, có thể kéo dài quá trình chuyển đổi, thậm chí tụt hậu. Chuyển đổi là vấn đề sống còn đối với vận mênh đất nước, nhưng thay đổi quá ít và quá muộn (too little too late) có thể trở thành vô nghĩa, vì để mất cơ hội mới, hoặc đánh mất nốt lòng tin còn sót lại. NQD. 18/2/2016 (Viet - Studies)
  15. Giờ đây chúng ta đã có đủ thời gian và đủ cứ liệu thực tế để thấy rằng trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam, không tồn tại một cách tách bạch phe cải cách và phe bảo thủ, cũng không tồn tại một cách rõ ràng phe thân Tàu và phe thân Mỹ, như một số người nào đó cố tình ra sức làm cho chúng ta nhầm tưởng (cần phân biệt giữa một số - có thể là rất ít - những người cố tình tạo ra như hiểu nhầm này, và số đông những người vô tình hiểu nhầm do thiếu thông tin). Có lẽ sẽ dễ chấp nhận hơn nếu chia rẽ trong nội bộ lãnh đạo cao cấp được nhìn từ góc độ : phe chính phủ và phe đảng (dựa trên cuộc đối đầu công khai một cách bí mật giữa người đứng đầu chính phủ và người đứng đầu Đảng cộng sản Việt Nam), hoặc nếu dựa vào một tiêu chí khác thì có thể nói rằng có hai phe : phe ủng hộ tham nhũng và phe chống tham nhũng. Sau đây là một vài dẫn chứng để chứng minh nhận định trên. Nhà văn Nguyễn Thị Từ Huy Xét trên tiêu chí « thân Trung », ta sẽ thấy : nếu phe đảng lệ thuộc vào Trung Quốc về phương diện tư tưởng, thì phe chính phủ lệ thuộc vào Trung Quốc về phương diện kinh tế. Sự lệ thuộc nào nguy hiểm hơn còn tùy vào quan điểm và đánh giá của mỗi người, dựa trên các phân tích và sự thừa nhận hay hình dung về hậu quả đã có và sẽ có. Xét trên tiêu chí « thân Mỹ », ta sẽ thấy : phe chính phủ thân Mỹ bằng cách gả con cái cho người Mỹ gốc Việt. Ví dụ này được đưa ra dựa trên việc dư luận từng hết lời ca ngợi cuộc hôn nhân của con gái thủ tướng với một người Mỹ gốc Việt, như một phản ứng chống lại sự cáo buộc lẩm cẩm của ba vị giáo sư xã hội chủ nghĩa, đảng viên gộc ; phản ứng này mạnh đến mức khiến người ta quên mất rằng điều quan trọng nhất trong bức thư thanh minh của con gái thủ tướng là việc bà khẳng định rằng mình là đảng viên, với một thông điệp rõ ràng : bà là đảng viên nên sẽ không bao giờ phản bội đảng, các giáo sư và đảng cứ yên tâm mà tin tưởng ở bà. Ngoài ra còn có thể lấy những ví dụ khác : phe chính phủ đặt hàng cho các học giả Hoa Kỳ làm các nghiên cứu (tôi có thể đưa ví dụ trong lĩnh vực giáo dục) hay nhờ Tony Blair làm tư vấn. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu hay các tư vấn dường như không được áp dụng vào việc điều hành chính phủ, có thể vì thế mà khiến cho chính phủ đương nhiệm trở thành chính phủ bê bối nhất từ trước đến nay, và có thể khiến cho người ta nghĩ rằng, việc nhờ tư vấn hay đặt hàng nghiên cứu cũng chẳng qua chỉ là một cái cớ để kiếm chác, như mọi dự án ở Việt Nam. Về phía phe đảng, cũng có sự xúc tiến những bước tiếp cận với chính quyền Mỹ (Tổng bí thư công du Hoa Kỳ, vận động để quân đội và hải quân Việt Nam có thể mua vũ khí của Mỹ. Chúng ta cũng đừng quên rằng TBT là Bí thư Quân ủy Trung ương). Xét trên tiêu chí « cải cách » thì có thể thấy : phe chính phủ của thủ tướng đương nhiệm gần như đã hủy hoại hết mọi thành tựu cải cách của các đời thủ tướng trước đó. Kinh tế Việt Nam trước đây có sự cân bằng trong hợp tác với Phương Tây và Trung Quốc. Và chính là nhờ hợp tác với Phương Tây, mà trong thời kỳ Đổi Mới, đã có lúc giới quan sát Phương Tây hy vọng rằng Việt Nam sẽ hóa rồng như Singapore, Hàn Quốc hay Nhật Bản. Mười năm qua, rồng đã hoàn toàn bị làm cho gãy cánh. Dưới sự điều hành của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, kinh tế Việt Nam bị đẩy hẳn vào vòng kìm kẹp của Trung Quốc, tiềm ẩn vô số rủi ro và nguy cơ, do tham nhũng bị đẩy lên thành quốc nạn, và do các tiêu chí minh bạch về kinh tế không những bị vi phạm mà những khuất tất về tài chính còn bị biến thành bí mật quốc gia, nghĩa là các vi phạm tài chính sẽ được bảo vệ như là bí mật quốc gia. Kèm theo đó là nợ công chồng chất. Xin xem thêm bài báo của Phạm Chí Dũng, « Nhập siêu từ Trung Quốc tiếp tục tăng vọt: Những quan chức nào ‘làm thuê’ cho Bắc Kinh? », để thấy rằng con số nhập siêu từ Trung Quốc năm 2015 tăng gấp 300 lần so với năm 2002. Phe đảng cũng nỗ lực « cải cách chính trị » trong những năm qua bằng các thành tích đưa xã hội trở lại thời Nhân văn Giai phẩm với các vụ thanh trừng một cách có hệ thống, ở giới đại học (Nhã Thuyên), giới báo chí (Đỗ Hùng), giới luật sư (Nguyễn Đăng Trừng…). Ngoài ra dường như phe đảng còn định thiết lập lại cả hình thức tòa án nhân dân thời cải cách ruộng đất, đại diện là nhân vật nổi tiếng trong giới dư luận viên giang hồ : Trần Nhật Quang. Vậy nên, sẽ không chính xác khi cho rằng có sự phân biệt tách bạch, rõ ràng giữa hai phe « thân Mỹ » và « thân Tàu », hoặc « cải cách » và « bảo thủ ». Tuy nhiên, cũng sẽ không chính xác nếu dựa vào việc TBT không tham nhũng và chủ trương chống tham nhũng để chia bộ máy lãnh đạo thành hai phe : chống tham nhũng và ủng hộ tham nhũng. Thực tế cho chúng ta thấy rằng nếu ngày hôm qua đa số lãnh đạo cao cấp ở Trung Ương đã ủng hộ người đứng đầu một chính phủ tham nhũng, thì cũng chính những lãnh đạo đó, trong một khoảng thời gian ngắn, có thể quay lưng lại với người mà mình đã từng ủng hộ. Như vậy, việc họ lựa chọn ủng hộ hay không ủng hộ một cá nhân nào đó trong bộ máy tham nhũng, không có nghĩa là họ muốn chống lại tham nhũng. (Nhân tiện xin mở một ngoặc đơn để nhắc lại rằng, nếu ở đại hội XII vừa rồi, họ lựa chọn ủng hộ Tổng bí thư, thì điều đó không đảm bảo rằng họ sẽ tiếp tục ủng hộ TBT một cách chung thủy. TBT và tất cả mọi người còn nhớ rằng đầu năm 2015, chính Thủ tướng mới là người được tín nhiệm gần như tuyệt đối. Chỉ trong vòng một năm thôi mọi thứ đều bị lật ngược. Hoặc cũng có thể nói, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ Hội nghị 13 đến Hội nghị 14, mọi thứ đã bị lật ngược. Do đó, điều khó hiểu trên sân khấu chính trị Việt Nam là : dân chúng không biết được các tiêu chí nào khiến cho các lãnh đạo được chọn, được tín nhiệm, và không biết được tiêu chí nào khiến cho các lãnh đạo bị loại bỏ). Vì thế, cho đến lúc này ở Việt Nam không tồn tại cái gọi là « phe chống tham nhũng ». Còn về sau như thế nào, thì chúng ta không thể nói trước được. Thực ra, cũng không chính xác khi nhìn nhận rằng có phe đảng và phe chính phủ. Bởi vì tất cả những người giữ các vị trí cấp cao của chính phủ hiện nay đều phải là đảng viên, tức đều là người của đảng. Như vậy cái gọi là "phe" thực sự rất không cơ sở. Những phân tích trên đây nhằm đặt lại vấn đề về khái niệm « phe » trong hệ thống lãnh đạo Việt Nam. Cần thận trọng khi dùng từ «phe », bởi nó có thể không trùng hợp với thực tế. Có lẽ « nhóm lợi ích » là cụm từ chính xác hơn. « Phe » thường dùng để chỉ những liên kết mang tính ổn định, tương đối lâu dài. « Nhóm lợi ích » hình thành trong những điều kiện lợi ích nhất định, nên lỏng lẻo hơn, và có thể tan rã bất cứ lúc nào. Bàn đến vấn đề « phe », bởi nó liên quan đến câu hỏi : Việt Nam có thể cải cách chính trị hay không ? Nếu như đã không tồn tại phe cải cách và phe bảo thủ, không tồn tại phe thân Tàu và phe thân Mỹ…, thì công cuộc cải cách ở Việt Nam sẽ không phụ thuộc quá lớn vào việc nhân sự nào ra đi, nhân sự nào ở lại. (Còn tiếp) Paris, 18/2/2016Nguyễn Thị Từ Huy (RFA Blog)
  16. Một trong những tên lửa hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc chụp ngày 03/11/1999. AFP photo Trung Quốc mới đây đã triển khai giàn tên lửa đất đối không được cho là hiện đại nhất thế giới ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp với Việt Nam. Hành động này của Trung Quốc làm dấy lên những câu hỏi về những bước đi tiếp tới của Trung Quốc trong việc quân sự hóa khu vực biển Đông, làm thay đổi hiện trạng và tiến tới đe dọa sự thống trị trên biển của Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương. Việt Hà phỏng vấn giáo sư Carl Thayer, chuyên gia thuộc học viện Quốc phòng Úc về những vấn đề này. Vì sao? Việt Hà: Theo ông vì sao Trung Quốc triển khai tên lửa ra Hoàng Sa vào lúc này, nó có liên quan gì đến chương trình tự do hàng hải của Mỹ gần đây ở biển Đông hay không? Gs. Carl Thayer: Tôi nghĩ là nó có liên quan đến việc máy bay tuần tra của Mỹ, rồi tàu Curtis Wilbur của Hoa Kỳ đi qua đảo Tri Tôn ở Hoàng Sa. Đây là quần đảo đang tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan… Trung Quốc đang làm gia tăng mối nguy đối với Hoa Kỳ và Bắc Kinh đã nói là sẽ làm như vậy tức là có đáp trả lại hành động của Mỹ. Đây là một trong những giàn phóng tên lửa tầm trung và cao hiệu quả nhất trên thế giới với thiết kế lấy từ Nga. Những máy bay tuần tra của Mỹ bay qua đây trong tương lai ví dụ như máy bay Poseidon sẽ gặp nguy hiểm. Trung Quốc sẽ không bắn hạ những máy bay này nhưng trong quá khứ các máy bay này có thể tuần tra và biết là Trung Quốc chỉ có thể điều máy bay chiến đấu lên mà thôi. Nhưng điều quan trọng hơn cả là khi Mỹ thực hiện chương trình tự do hàng hải với các chiến hạm gần Hoàng Sa thì Trung Quốc có thể chọn để đối đầu bằng những tàu hải giám và tàu cá. Và nếu Mỹ muốn cho thấy kết quả bằng việc đưa máy bay từ tàu sân bay lên trên khu vực này thì những máy bay này sẽ nằm trong tầm kiểm soát của giàn phóng tên lửa và tất cả đều bị nguy hiểm. Hoàng Sa thực ra đã được quân sự hóa từ lâu trước khi Trung Quốc đưa giàn tên lửa lên đây. Từ thập niên 90 Trung Quốc đã cho xây dựng sân bay tại đây và đã cho mở rộng sân bay gần đây. Họ đặt ở đó những máy bay chiến đấu hiện đại nhất cho nên họ có khả năng đánh chặn và cho máy bay bay ra khu vực biển Đông từ đó. Bây giờ, giàn tên lửa được đưa ra bổ sung giúp gia tăng phòng vệ cho Trung Quốc. Sự việc này xảy ra cùng lúc với những hình ảnh từ vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang tiến hành xây dựng và mở rộng các điểm ở Hoàng Sa. …. Và cuối cùng là khi Trung Quốc đặt giàn phóng chống tàu vào đây và đưa chúng vào hoạt động thì điều này cho thấy là nếu muốn Trung Quốc có thể đột ngột nói là bị đe dọa bởi Mỹ và đưa những giàn tên lửa này đến các đảo nhân tạo ở Trường Sa. Việt Hà: Việc triển khai tên lửa đất đối không ra Hoàng sa của Trung Quốc có tác động thế nào lên khả năng quân sự của nước này tại biển Đông? Gs. Carl Thayer: Điều quan trọng là vào tháng 11 năm ngoái khi Trung Quốc đưa máy báy chiến đấu đến Hoàng SA mà không ai chú ý dù báo chí có nói tới bởi vì mọi người dồn quan tâm đến đề Trường Sa và các đường băng ở Trường Sa. Tất cả những thảo luận xung quanh vấn đề quân sự hóa biển Đông chỉ tập trung vào Trường Sa. Hoàng Sa là nơi có cầu tàu, là nơi đỗ tàu chiến. Nó đã được quân sự hóa từ rất lâu và bây giờ họ bổ sung thêm giàn tên lửa và họ có thể lập luận là vì những chuyến bay tuần tra của máy bay Mỹ. Nhưng điều mà giàn tên lửa này có thể làm là khi có ném bom trong trường hợp có xung đột hoặc trường hợp có sử dụng máy bay gây sức ép lên Trung Quốc thì phía bên kia sẽ bị rủi ro hơn cho nên giàn tên lửa này giúp gia tăng khả năng viễn chinh (power projection capability) của Trung Quốc. Máy bay từ Hoàng Sa có thể bay ra biển và quay về. Khi những đường băng ở Trường Sa được hoàn tất và nâng cấp, máy bay từ Hoàng Sa có thể đáp xuống đó khi có sự cố và có thể được tiếp nhiên liệu ở đó. Từng bước một, với đại bản doanh ở Quảng Châu, căn cứ hải quân ở phía nam của đảo Hải Nam, việc xây dựng đảo PHú Lâm hơi xa hơn về phía nam giúp làm gia tăng sức mạnh viễn chinh của Trung Quốc. Trung Quốc muốn thống trị biển Đông Tên lửa DF-5B được quân đội Trung Quốc diễu hành tại Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh ngày 03 tháng 9 năm 2015, kỷ niệm lần thứ 70 chiến thắng Nhật Bản và kết thúc chiến tranh thế giới II. AFP photo Việt Hà: Mục tiêu của Trung Quốc là thống trị biển Đông, với những gì Trung Quốc đang làm theo ông Trung Quốc đã giành được bao nhiêu phần kiểm soát ở biển Đông? Gs. Carl Thayer: Trung Quốc hiện kiểm soát được ở biển Đông tới mức mà nước này có thể bắt nạt được Việt nam và Philippines và có thể thách thức trực tiếp Malaysia, thậm chí xâm nhập vào vùng biển của Indonesia, điều mà hiện Trung Quốc chọn cách không làm quá thường xuyên dù đã làm trước đó. Nhưng Trung Quốc vẫn chưa thể thách thức được sức mạnh của Hoa Kỳ ở đây vào lúc này nhất là khi hiệp ước quốc phòng tăng cường giữa Mỹ và Philippines được tòa xác định là hợp hiến. Điều này sẽ dẫn đến việc gia tăng sự có mặt của máy bay, tàu chiến và các lực lượng hỗ trợ của Mỹ khác trong khu vực, và Hoa Kỳ có thể có đáp ứng nhanh hơn nhiều từ những căn cứ an toàn hơn nhiều so với những cơ sở mà Trung quốc hiện có ở Trường Sa. Sự kiểm soát của Trung Quốc không ảnh hưởng đến những tàu vận chuyển thương mại, nhưng ảnh hưởng đến hoạt động của tàu chiến và máy bay của những nước mà Trung Quốc không muốn thấy ở biển Đông như Mỹ chẳng hạn. Trung Quốc không thể ngăn chặn tàu Mỹ qua đây nhưng khi tàu chiến Mỹ đi qua hay máy bay Mỹ bay qua thì hải quân Trung Quốc nói là Mỹ đã xâm nhập vào khu vực quân sự, khu vực an ninh, khu vực báo động, đe dọa hải quân Trung Quốc. Trung Quốc không nói là khu vực chủ quyền 12 hải lý. Trung Quốc không nói đến 12 hải lý ở bất cứ đâu trên Trường Sa vì nếu nói vậy thì Trung Quốc sẽ tự làm yếu lập luận đường đứt khúc 9 đoạn của mình. Điều Trung Quốc muốn là kiểm soát và dần dần giảm các tàu và máy bay nước ngoài qua đây hoặc họ phải tuân theo luật của Trung Quốc, xin phép trước khi vào, tức là thừa nhận quyền kiểm soát của Trung Quốc, hoặc ít nhất là báo cáo trước khi đi vào. Việt Hà: Mục tiêu của Trung Quốc là từng bước giành lấy sự thống trị về mặt quân sự trên biển của Mỹ từ biển Đông ra Thái Bình Dương. Theo ông những gì Trung Quốc đang làm đã ảnh hưởng thế nào tới sự thống trị của hải quân Mỹ trong khu vực? Gs. Carl Thayer: Trước hết Hoa Kỳ rất lớn tiếng và về tự do hàng hải nhưng đây chỉ là vấn đề quan trọng mà không phải là vấn đề chính… Hiện tại Hoa Kỳ đang trong thời gian chuyển giao lãnh đạo và Trung Quốc có thể tận dụng cơ hội này. Vấn đề ở trung đông cũng thu hút sự chú ý của Mỹ ra khỏi khu vực châu Á Thái Bình Dương. Nhưng vấn đề là liệu Hoa Kỳ có muốn tham gia vào một xung đột khiến làm xấu đi quan hệ của Mỹ với Trung Quốc liên quan đến đảo và bãi đá của những bên khác hay không. Dù Philippine là đồng minh của Mỹ nhưng Mỹ đã để Trung quốc lấy bãi Scarborough, ngăn chặn đường tiếp liệu tới bãi Second Thomas. Hoa Kỳ đã không có hành động hiệu quả vì không có phản ứng kịp thời. Đáng ra Mỹ đã phải có hành động từ khoảng 18 hay 20 tháng trước, khi Trung Quốc bắt đầu những hoạt động nạo vét và xây dựng. Khó có thể nói là tình báo Mỹ không biết điều gì đang xảy ra và họ không hiểu được những ảnh hưởng thực sự của những hoạt động này. Cho đến khi Mỹ nói điều gì thì mọi việc đã quá muộn. Như tôi đã nói trong đối thoại quốc phòng Mỹ Việt vào tháng 3 năm ngoái khi tôi được đề nghị nói về vấn đề này và bài mở đầu của tôi là hành động của Trung Quốc … có nghĩa là việc đã rồi, và tôi nói trước khi Trung Quốc gia tăng các hoạt động xây lấp. Việt Nam ảnh hưởng gì? Việt Hà: Theo ông, với việc Trung Quốc đưa giàn tên lửa ra Hoàng Sa, gia tăng sự hiện diện quân sự ở khu vực này, an ninh của Việt nam bị ảnh hưởng ra sao? Gs. Carl Thayer: Giàn tên lửa không thể tấn công Việt Nam, không thể bắn và gây hư hại với Hải Phòng hay Hà Nội. Nó được thiết kế để bắn rơi các máy bay bay qua vùng Hoàng Sa. Theo như tôi biết thì máy bay tuần tiễu của Việt Nam đã bay ra Trường Sa nơi Việt Nam đòi chủ quyền nhưng Việt Nam không thể làm gì hơn vì Trung Quốc có chiếm đóng khu vực này và sẽ khiến Việt Nam gặp nguy hiểm nếu Việt nam định làm gì khác. Kể cả nếu Việt Nam dám đưa máy bay lên trên khu vực Hoàng Sa thì Trung Quốc cũng có thể bắn hạ. Nhưng tôi nghi là Việt Nam không dám làm vậy. Hãy nhìn những gì xảy ra với giàn khoan dầu 981 của Trung Quốc, Việt Nam chỉ đưa ra những phản ứng từ phía Bộ ngoại giao, họ thậm chí cấm báo chí đưa tin ngoài tin phản ứng của Bộ Ngoại giao. Lãnh đạo hiện tại của Việt nam làm nhẹ tình hình rất nhiều trong xung đột với Trung Quốc. Việt Nam về lời nói thì ủng hộ vụ kiện của Philippine nhưng để Philippine gánh hết phần việc chính nhắm vào Trung Quốc vì Việt Nam biết là ASEAN không bao giờ giúp đỡ họ…. với những suy nghĩ là Mỹ sẽ bán các máy bay chiến đấu hiện đại và hệ thống vũ khí hiện đại, nhưng khi chúng ta đọc kỹ thì tất cả phải nằm trong 5 điểm của bản ghi nhớ năm 2011, tức là chỉ có những bước tiến rất hạn chế và chỉ bao gồm các hoạt động tìm kiếm cứu nạn, hoạt động về y tế của quân đội Mỹ, nó không bao gồm việc tham gia vào các hoạt động tập trận với hải quân Mỹ và chúng ta chưa nghe cụ thể từ phía Việt nam là Việt Nam muốn vũ khí sát thương gì từ Mỹ. Việt Hà: Theo ông thì sau sự việc này Hoa Kỳ sẽ có phản ứng thế nào và Hoa Kỳ cần phải làm gì để đối phó với Trung Quốc? Gs. Carl Thayer: Hoa Kỳ hứa là sẽ tiếp tục thực hiện chương trình tự do hàng hải và làm gia tăng sự phức tạp cũng như phạm vi của chương trình với những khả năng tham gia của hải quân Philippines, Nhật Bản và Australia. Những thách thức cho đến lúc này mới nhắm vào từng tàu chiến đơn lẻ của Mỹ và Trung Quốc có thể có những phản đối không đáng kể nhưng thực tế thì các tàu cũng chỉ đi qua là xong. Vấn đề ở Hoàng Sa chúng ta có thể dự đoán được là Trung Quốc sẽ có phản ứng, tuy nhiên không một sự đối đầu nào với việc sử dụng quyền tự do hàng hải là lý do thực sự, mà cần phải đề cập đến vấn đề quân sự hóa… vấn đề là không có ai đưa ra được định nghĩa cụ thể về vấn đề này … tất cả 21 thực thể ở Trường Sa mà Việt Nam chiếm đóng và kiểm soát thực tế đã được lính hải quân đóng chốt. Chúng đã được quân sự hóa, một số còn có những cơ sở quân sự tăng cường, một số được làm từ khoảng 30 năm về trước. Đó là một dạng quân sự hóa. Hay như theo tôi nghĩ thì là những gì mà Hoa Kỳ đang làm là đưa các hệ thống vũ khí được sử dụng với mục đích quốc phòng. Cho đến lúc này chúng ta chưa thấy như vậy trên các đảo nhân tạo, và Trung Quốc có thể lập luận là Mỹ đang quân sự hóa. Vì vậy Mỹ cần phải xác định cụ thể hơn là với hành động cụ thể nào mà Trung Quốc làm là vượt quá lằn ranh. Nếu chỉ dùng một từ nghĩa rộng là quân sự hóa thì không giúp được gì vì Trung quốc có thể lập luận là Mỹ hãy bay qua biển Đông xem nước nào đang sử dụng đường băng…. Hiện đã có 3 đường băng của Trung Quốc, đường băng của Philippine, của Malaysia, Việt Nam… việc quân sự hóa sẽ diễn ra từ từ không đột ngột. Tôi không thích dùng từ lát cắt salami nhưng đó là điều Trung quốc đang làm để đạt được điều mình muốn. Việt Hà: Cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn. Việt Hà (RFA)
  17. Ông Ted Osius đã có 25 năm làm ngoại giao, với phần lớn thời gian làm việc ở châu Á. Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nói sẽ không có một yếu tố 'giọt nước làm tràn ly' duy nhất trong tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông. Trả lời phỏng vấn với BBC tiếng Việt tại Hà Nội vào đầu tháng Hai, ông Ted Osius cũng bình luận về nhân sự Đại hội 12 cũng như chủ đề nhân quyền Việt Nam. BBC: Tổng thống Obama nói rằng "TPP cho phép Hoa Kỳ - chứ không phải các quốc gia như Trung Quốc – soạn ra luật lệ và lộ trình trong thế kỷ 21, đặc biệt quan trọng trong một khu vực năng động như khu vực châu Á-Thái Bình Dương". Liệu có khả thi để đưa ra các luật chơi tương tự nhằm đối phó với các vấn đề như tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông hay không? Trong cả hai trường hợp, chúng ta đang nói về việc tăng cường pháp quyền và tạo ra luật lệ để khu vực được thịnh vượng hơn. Trong trường hợp Biển Nam Trung Hoa mà Việt Nam gọi là Biển Đông, đó là đảm bảo rằng luật pháp quốc tế được tuân thủ. BBC: Hoa Kỳ đã kêu gọi dừng cải tạo và bồi đắp đảo nhân tạo tại các khu vực có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Hoa Kỳ cũng đã đưa tàu chiến vào khu vực mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Vậy ông nghĩ liệu có yếu tố 'giọt nước làm tràn ly' hay không? Tôi không nghĩ rằng sẽ có một biến cố giọt nước làm tràn ly duy nhất. Đã và đang có ba khía cạnh diễn ra. Thứ nhất là về pháp lý. Đã có vụ kiện ra tòa trọng tài quốc tế ở The Hague. Tôi nghĩ rằng yếu tố này sẽ góp phần tác động tới tiến trình ngoại giao. Thứ hai là tiến trình ngoại giao liên quan đến việc bảo đảm rằng tất cả các quốc gia trong khu vực cam kết hệ thống pháp luật chứ không phải ỷ mạnh hiếp yếu. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp Tổng thống Barack Obama vào tháng Bảy 2015. Và thứ ba là có quá trình xây dựng năng lực cho các quốc gia trong khu vực. Việt Nam đang xây dựng năng lực an ninh hàng hải của mình, Philippines đang xây dựng năng lực an ninh hàng hải của mình. Và chúng tôi đang ở khu vực này. Hoa Kỳ hiện diện trong khu vực này. Chúng tôi sẽ không đi đâu cả. Chúng tôi sẽ tiếp tục bay, đi tàu và hoạt động trong khu vực này theo luật pháp quốc tế. BBC: Ông có theo dõi Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12? Hà Nội và TP Hồ Chí Minh vừa có các khuôn mặt mới trong lãnh đạo Đảng tại các thành phố này và họ ít nhiều là giới kỹ trị. Một số người tỏ ra khá bất ngờ trước kết quả bầu chọn lãnh đạo cấp cao trong kỳ Đại hội Đảng. Liệu cá nhân ông có thấy “ngạc nhiên” về dàn lãnh đạo mới của Việt Nam? Chúng tôi theo dõi Đại hội vừa qua rất cẩn trọng và với sự quan tâm rất lớn. Điều khiến tôi thấy quan tâm nhiều nhất trước hết là đã có các quyết định sớm về việc nhất trí cho chính sách hội nhập quốc tế. Thứ hai là việc tán thành TPP. Tôi nghĩ cả hai quyết định về chính sách đó là các yếu tố để tôi tiếp tục lạc quan rất nhiều về quỹ đạo của mối quan hệ của chúng tôi với Việt Nam. Xét về mặt nhân sự, tôi nghĩ rằng mối quan hệ song phương thì lớn hơn bất kỳ các cá nhân nào. Vì vậy, thực tế là có những thay đổi về thế hệ mới vừa khởi sắc chỉ là điều tốt đẹp mà thôi. Và thực tế rằng Đảng Cộng sản Việt Nam rất rõ ràng khi ủng hộ TPP và tiếp tục hội nhập quốc tế chỉ có thể là điều tích cực cho mối quan hệ với Hoa Kỳ. Tổng thống Obama đã gặp các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. BBC: Giới cổ súy cho nhân quyền và dân chủ nói về thực trạng "có vấn đề" ở Việt Nam, cụ thể như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và tự do tôn giáo... Nhân quyền dường như là một trong những trở ngại chính ngăn cản Hoa Kỳ và Việt Nam hợp tác toàn diện hơn. Ông lạc quan ở mức nào rằng chủ đề nhân quyền này có thể được cải thiện hoặc được thay đổi? Tôi đồng ý rằng nhân quyền là vấn đề cản trở trong quan hệ song phương. Tôi nghĩ rằng quan hệ đối tác của chúng ta không thể đạt được đầy đủ tiềm năng trừ khi có sự tiến bộ tiếp tục và bền vững đối với việc tôn trọng nhân quyền và pháp quyền. Chẳng hạn như việc chuẩn thuận TPP do Quốc hội Hoa Kỳ sẽ không thể là việc cứ đương nhiên được thông qua. Vì vậy, nhân quyền là một vấn mà tôi quan tâm nghiêm túc và tôi dành rất nhiều thời gian để làm việc về vấn đề này. Tổng thống Obama nói với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục rằng nhân quyền kể như một phần định hình ra người Mỹ và rằng người Mỹ nói rằng chúng tôi rất coi trọng tự do ngôn luận, tự do thờ phụng, tự do báo chí và rằng Việt Nam cần tiếp tục trông đợi chúng tôi quan tâm và đề cập tới những chủ đề này với sự nhiệt thành và có tính lâu dài. Thực ra là người đã theo dõi những gì đã và đang diễn ra ở Việt Nam trong 20 qua thì nay tôi nghĩ rằng có nhiều chiều hướng chung diễn ra tốt. Tôi chỉ muốn lấy một ví dụ là khi tôi đến thăm Tây Nguyên lần đầu tiên cách đây 20 năm thì thấy một chủng viện trống vắng ngoại trừ có ba tu sỹ có tuổi ở đó. Cách đây vài tháng tôi có tới thăm lại nơi này thì ở đó toàn người trẻ. Có khoảng 150 chủng sinh từ cộng đồng thiểu số sống gần đó, rồi có các tu sỹ trung niên, và các linh mục lớn tuổi hơn, và có rất nhiều nhiều bài giảng đạo tại đây. Vì vậy, tôi nghĩ rằng có nhiều điều đáng quan ngại nhưng tôi cũng nghĩ rằng theo thời gian thì đã và đang có một số tiến bộ. Và vì vậy chúng tôi ngoài việc cứng rắn thì thực ra cũng cần phải thừa nhận sự tiến bộ khi chứng kiến sự tiến bộ này. Nguyễn Hoàng BBC tiếng Việt, Hà Nội (BBC)
  18. Phản đối mạnh mẽ việc Công an TP.HCM xúc phạm nghiêm trọng quyền dân ngày tưởng niệm vệ quốc 17/2 17/2/2016 – ngày tưởng niệm 6 vạn quân nhân và người dân Việt Nam đã hy sinh trong Chiến tranh vệ quốc 1979 chống Trung Quốc xâm lược – cuộc dâng hoa thắp nhang thắm đượm lòng yêu nước của giới trí thức Sài Gòn đã bị chính quyền và công an thành phố này áp chế và ngăn chặn thô bạo. Cũng là lần thứ năm liên tiếp trong 5 năm qua, “Thành phố mang tên Bác” cấm chỉ các cuộc kỷ niệm, tưởng niệm độc lập về những sự kiện liên quan đến Trung Quốc. Trong số hàng trăm trí thức, người dân dự định tưởng niệm năm nay, chỉ có khoảng vài chục người đến được tượng đài Trần Hưng Đạo ở quận 1. Nhưng xung quanh tượng đài này nhan nhản đến vài trăm công an, dân phòng. Rất nhiều người khác đã bị lực lượng an ninh huy động số đông chặn ngay tại nhà. “Không cho đi vì là ngày kỷ niệm chiến tranh biên giới Việt – Trung” – công an tuyên bố không giấu diếm. Những nhân viên an ninh còn huỵch toẹt: “Đây là lệnh của chính quyền TP.HCM”. Song trong lúc chính quyền và giới công an TP.HCM mẫn cán và rắp tâm hành động theo một cách khó có thể nghĩ khác là “bảo vệ Trung Quốc”, cuộc tưởng niệm 17/2 ở Hà Nội đã diễn ra yên bình. Chỉ có một nhóm nhân viên an ninh đứng xung quanh và cũng chỉ làm nhiệm vụ ghi hình. Trong vòng chưa đầy một tháng, chính quyền và công an Hà Nội đã hai lần tỏ ra kềm chế hơn, có văn hóa và cũng liêm sỉ hơn. Lần trước, ngày 19/1/2016, hàng trăm trí thức và người dân đã tưởng niệm 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh để bảo vệ Trường Sa năm 1974, cũng tại tượng đài Lý Thái Tổ, mà không bị công an lao vào đám đông và giật phá tan nát vòng hoa tưởng niệm như ở Sài Gòn. Chính vào ngày 19/1 ấy, hàng trăm người bị đàn áp, bị đánh đập, bị cấm ra khỏi nhà ở Sài Gòn. Trước đó, trong khi cuộc tuần hành phản đối chuyến công du Việt Nam của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra bình yên ở thủ đô vào tháng 10/2015, vài chục người tuần hành tương tự ở Sài Gòn đã bị đánh đến đổ máu. Gương mặt đẫm máu của người tuần hành Trần Bang hoàn toàn xứng đáng là một bằng chứng mãnh liệt tố cáo về việc chính quyền và công an TP.HCM đàn áp không nương tay đối với những người phản đối Trung Quốc. Nhiều năm qua, trong bề dày được coi là “thành tích” của mình, Công an TP.HCM đã quá mang tai tiếng về đàn áp nhân quyền. Chưa kể nhiều cuộc đàn áp biểu tình xảy ra trong những năm trước, chỉ trong hơn 3 tháng qua, ba lần chính quyền và công an TP.HCM đã tỏ ra sắt máu hơn hẳn Hà Nội, hiển lộ ý đồ và hành vi đàn áp tinh thần thoát Trung một cách có hệ thống. Ai đã ra lệnh cho những cuộc đàn áp ấy? Nhằm ý đồ gì trong bối cảnh Trung Quốc vẫn tiếp diễn can thiệp vùng biển và vùng trời của Việt Nam, tái diễn bắt giữ và bắn giết ngư dân Việt? Không hiểu vô tình hay cố ý, cuộc đàn áp mới nhất vào ngày 17/2/2016 chỉ diễn ra ít ngày sau khi ông Đinh La Thăng nhậm chức bí thư thành ủy TP.HCM. Ngay trong ngày 17/2 ấy, ông Đinh La Thăng đã bị nhiều người dân và trí thức réo tên phản đối. Có lẽ đây là một sự khởi đầu không mấy êm ái đối với ông Thăng tại thành phố này. Tương lai dễ hình dung là nếu cứ để nạn công an trị hoành hành và đàn áp nhân quyền bừa bãi như trong nhiều năm qua, chính Bí thư thành ủy Đinh La Thăng sẽ là người phải chịu thiệt thòi chính trị và xã hội nhiều nhất, bất chấp những hứa hẹn không mệt mỏi của ông về dân chủ cho nhân dân. Là người đưa ra chỉ đạo “xử lý những cá nhân làm cho chính quyền mất uy tín đối với nhân dân” (Vietnamnet) tại buổi làm việc với Đảng bộ, Ban giám đốc Công an TP.HCM vào chiều 17/2/2016 – cùng ngày với cuộc đàn áp khó tưởng tượng của giới công an thành phố này đối với những người dân yêu nước thoát Trung, ông Đinh La Thăng có tiến hànhđiều tra và trả lời thỏa đáng cho dân về hành vi Công an TP.HCM lạm dụng quyền lực để hành hung, dùng bạo lực đàn áp công dân, chà đạp quyền công dân hay không? Sài Gòn, ngày 17 tháng 2 năm 2016 Những người ký tên: Phạm Chí Dũng, Nhà báo độc lập Hoàng Dũng, Giáo sư Đại học Sư phạm TP.HCM Hoàng Văn Dũng, Tổ chức Con đường Việt Nam Tô Lê Sơn, Kỹ sư, Sài Gòn Trần Bang, Cựu chiến binh, Sài Gòn Huỳnh Kim Báu, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn Lê Thân, Cựu tù Côn Đảo, Khánh Hòa Kha Lương Ngãi, Nhà báo độc lập, Sài Gòn Hoàng Hưng, Nhà thơ, Vũng Tàu Chu Hảo, Giáo sư, Đà Nẵng Nguyễn Huệ Chi, Giáo sư, Hà Nội Phạm Toàn, Nhà nghiên cứu giáo dục, Hà Nội Nguyễn Văn Thạnh, Kỹ sư, Đà Nẵng Huỳnh Thục Vy, Phụ nữ nhân quyền, Sài Gòn Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nhà nghiên cứu, Sài Gòn Đặng Thị Hảo, Cán bộ hưu trí, Hà Nội Phạm Bá Hải, Nhà báo độc lập, Sài Gòn Bùi Minh Quốc, Nhà thơ, Đà Lạt Phạm Đình Trọng, Nhà văn, Sài Gòn Trần Thanh Vân, Kiến trúc sư, Hà Nội GB Huỳnh Công Minh, Linh mục, Sài Gòn Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục JM Lê Quốc Thăng, Linh mục Nguyễn Quốc Thái, Nhà báo độc lập, Sài Gòn Mạc Văn Trang, Phó giáo sư Phan Thị Hoàng Oanh, Tiến sĩ, Đại học Sư phạm TP.HCM Hà Sĩ Phu, Tiến sĩ, Đà Lạt Đỗ Minh Tuấn, Đạo diễn phim, Hà Nội Phạm Khiêm Ích, Hà Nội Phạm Duy Hiển, Dịch giả, Vũng Tàu Nguyễn Đăng Quang, Đại tá công an, nguyên cán bộ Bộ công an, Hà Nội Thích Không Tánh,Hòa thượng Chùa Liên Trì, Sài Gòn Nguyễn Thị Thanh Mai, Luật gia, Sài Gòn Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ Tư vấn Thủ tướng Chính phủ (Võ Văn Kiệt), Hà nội. Mai Thái Lĩnh, Nhà nghiên cứu độc lập, Đà Lạt. Đoàn Thanh Liêm, California, Mỹ Trần Vân Mai, Nhà khoa học, California, Mỹ Trần Khuê, Nhà nghiên cứu văn hóa, Sài Gòn Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An Nguyễn Ngọc Giao, Nhà nghiên cứu, Paris, Pháp André Menras (Hồ Cương Quyết), Nhà nghiên cứu, Pháp Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, Hà Nội Nguyễn Trung Chính, Nhà nghiên cứu, Paris, Pháp Nguyễn Đông Yên, Giáo sư, Hà Nội Trần Minh Thảo, Nhà văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng Tiêu Dao Bảo Cự, Nhà văn tự do, Đà Lạt Nguyễn Xuân Diện, Tiến sĩ Hán Nôm, Hà Nội Bùi Văn Bồng, Đại tá quân đội, Nhà báo Hoàng Ngọc Biên, Nhà thơ – Họa sĩ, San Jose, Hoa Kỳ Ngô Kim Hoa ( Sương Quỳnh), Nhà báo tự do, Sài Gòn Lại Thị Ánh Hồng, Nghệ Sĩ, Sài Gòn Hoàng Quý Thân, Phó giáo sư, Hà Nội Lê Văn Tâm, Tiến sĩ, Nhật Bản Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội Trần Minh Quốc, Nhà giáo, Sài Gòn Đào Tiến Thi, Biên tập viên, Hà Nội Lưu Trọng Văn, Nhà báo, Sài Gòn Vũ Trọng Khải, Tiến sĩ, Sài Gòn (Ba sàm)
  19. Thanh PhươngĐăng ngày 18-02-2016 Sửa đổi ngày 18-02-2016 11:09 Ngoại trưởng Vương Nghị : "Các cơ sở được xây dựng trên các đảo phù hợp với quyền của Trung Quốc" tự bảo vệ và phòng thủ. Ảnh ngày 18/02/2016.Reuters Theo báo chí chính thức Trung Quốc, Bắc Kinh khẳng định đã triển khai các vũ khí từ “nhiều năm nay” trên một đảo tranh chấp ở Biển Đông, bác bỏ cáo buộc của Mỹ về việc gia tăng cường độ quân sự hóa trong khu vực. Ngày 18/02/2016, tờ Hoàn Cầu Thời Báo đưa tin trên trang web là bộ Quốc Phòng Trung Quốc khẳng định hệ thống phòng không trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, đảo tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan, đã được triển khai từ “nhiều năm nay”, và cho rằng một số phương tiện truyền thông phương Tây vẫn cứ thổi phồng “mối đe dọa”Trung Quốc. Bộ Quốc Phòng Trung Quốc còn tuyên bố “quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) là lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc” và trên vùng lãnh thổ này, Trung Quốc “có quyền chính đáng và hợp pháp” triển khai các vũ khí phòng thủ. Vào đầu tuần, kênh truyền hình Mỹ Fox News công bố các hình ảnh vệ tinh cho thấy trên đảo Phú Lâm hiện có hai dàn tên lửa và một hệ thống radar. Một quan chức Mỹ ngày 17/02/2016 xác nhận Trung Quốc đã triển khai các tên lửa địa đối không trên đảo này. Bộ Quốc Phòng Đài Loan cũng đã xác nhận thông tin đó. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã không bác bỏ thông tin về việc triển khai tên lửa ở Hoàng Sa, nhưng tuyên bố các cơ sở được xây dựng trên các đảo là “phù hợp” với quyền của Trung Quốc tự bảo vệ và phòng thủ, trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. Ngày 17/02/2016, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã chỉ trích Bắc Kinh “gia tăng cường độ quân sự hóa” Biển Đông, vốn đã là vùng có nhiều căng thẳng giữa các nước châu Á, và theo ông, điều này gây lo ngại cho Washington. (rfi)
  20. Trên nguyên tắc, nhà nước CS Việt Nam chưa cho phép biểu tình, bất kể quyền biểu tình được ghi trong Hiến Pháp và bất kể các cam kết với quốc tế rằng các quyền con người sẽ được tôn trọng tại VN. Và bây giờ, chính phủ la câu giờ, bất kể rằng nhiều năm nay, những cuộc biểu tình và đình công vẫn diễn ra, khi người dân bị ép bức quá độ. Bản tin Infonet cho biết qua bản tin tựa đề: “Chính phủ lại xin lùi Luật Biểu tình, Thường vụ Quốc hội không cho...” Bản tin này viết: “Sáng nay (17/2), Thường vụ Quốc hội đã khai mạc phiên họp thứ 45. Sau phiên khai mạc, Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về đề nghị điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Tại phiên họp này, Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về đề nghị đẩy nhanh tiến độ trình Quốc hội khóa XIII thông qua dự án Luật đấu giá tài sản; Về dự án Luật biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi khởi kiện; Về dự án Luật hành chính công. Đặc biệt, tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã trình bày Tờ trình của Chính phủ mới được ký ngày 16/2 về việc xin lùi thời gian trình Luật Biểu tình ra Quốc hội. Dự án Luật Biểu tình từng được nhiều đại biểu Quốc hội kiến nghị ban hành, trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, trình bày trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng nay, Bộ trưởng Hà Hùng Cường cho biết, Chính phủ đã phân công và chỉ đạo Bộ Công an soạn thảo dự án Luật Biểu tình. Bộ Công an đã tiến hành tổng kết pháp luật về lĩnh vực này, tiến hành khảo sát, nghiên cứu, biên dịch… “Tại phiên họp thường kỳ tháng 1/2016, Chính phủ đã thảo luận vấn đề này, nhưng ý kiến của các thành viên Chính phủ còn rất khác nhau về nội dung dự thảo luật”, ông Cường cho biết. Vì vậy, để có thêm thời gian nghiên cứu, chỉnh lý Luật biểu tình đảm bảo chất lượng, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phép lùi dự án Luật biểu tình từ kỳ họp cuối của Quốc hội khóa XIII (tháng 3/2016) sang chương trình kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV (cuối năm 2016). Trước đề xuất trên của đại diện Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã lên tiếng chất vấn Bộ trưởng Tư pháp: Luật Biểu tình tại sao cứ lùi đi lùi lại mãi, do làm không được hay không chịu làm? Cái này cứ đưa ra đưa vào mãi. Không phải Quốc hội quyết định mà Bộ Chính trị cũng đã quyết định...”(ngưng trích) Cũng lạ... Ông Nguyễn Sinh Hùng đột nhiên cấp tiến hẳn ra. Trong khi đó, công nhân biểu tình vì bị nợ lương thê thảm. Báo Tuổi Trẻ có bản tin “Bị công ty nợ lương, đầu năm công nhân kéo đến trụ sở tỉnh”... Bản tin này viết: “Sáng 17-2, hàng chục công nhân Công ty TNHH gốm sứ Mỹ Xuân (huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã kéo trụ sở UBND tỉnh này đề nghị giải quyết việc họ bị chủ lao động nợ lương và không được chốt sổ bảo hiểm. Trước đó, vào tháng 8-2014, công ty này đóng cửa nhà máy vì giám đốc người Pháp về nước. Lúc đó, công ty thông báo công nhân được nghỉ việc cho đến khi nhà máy hoạt động trở lại và trong thời gian nghỉ việc, công nhân vẫn được công ty hỗ trợ theo mức lương cơ bản của nhà nước là hơn 2,6 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, đến nay, công ty mới chỉ được trả lương tháng 9-2014. Sổ bảo hiểm xã hội của hàng chục công nhân cũng không được trả nên nhiều người tìm được việc mới thì không thể ký hợp đồng lâu dài. Từ tháng 10-2015, công nhân của công ty đã gõ cửa nhiều phòng ban của huyện, tỉnh để yêu cầu được giải quyết việc nợ lương và chốt sổ bảo hiểm nhưng vẫn không được giải quyết nên bức xúc, kéo đến trụ sở UBND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu để được giải quyết...”(ngưng trích) Biểu tình không cần luật biểu tình? Đúng vậy. Lại một cuộc biểu tình khác: 2 nữ công nhân có bầu, bị đuổi việc... thế là hàng trăm công nhân biểu tình bênh vực 2 nữ công nhân này. Báo Pháp Luật Plus có bản tin tựa đề “Hà Nội: Nữ công nhân bị đuổi việc vì lý do… mang bầu” hôm 17-2-2016, kê3 rằng, trích: “Theo phản ánh của công nhân công ty TNHH Inkel có địa chỉ tại Lô 26, khu công nghiệp Quang Minh, Mê Linh, Hà Nội đã đuổi việc hai nữ công nhân do người có bầu và người nghỉ sau sinh. Đa số công nhân làm việc tại đây đều không đồng tình với quyết định này. Do bất bình trước sự việc trên công nhân công ty đã tổ chức đình công để phản đối. Ghi nhận của phóng viên tại thời điểm trưa nay (17/2), tại công ty Inkel tình hình có vẻ bớt căng thẳng hơn. Tuy nhiên, hàng trăm công nhân vẫn ngồi la liệt ở gần cổng ra vào và không làm việc. Khi phóng viên Pháp luật Plus có mặt tại hiện trường và liên hệ tác nghiệp báo chí thì bị một tốp người đứng ra ngăn cản trở, trong đó có cả người mặc đồng phục là bảo vệ của công ty Inkel. Được biết, hôm nay đã là ngày thứ 2 công nhân công ty đình công và hiện vẫn chưa có hướng giải quyết. Qua tìm hiểu của phóng viên, hiện công ty TNHH Inkel đã sa thải hai công nhân nữ, một chị đang mang thai và một chị nghỉ sau sinh đi làm. Chị Nguyễn Thị H (công nhân công ty) cho biết: “Công ty Inkel là đơn vị chuyên sản xuất linh kiện điện tử dân dụng, vốn đầu tư 100% của nước ngoài. Chính vì vậy, khi có quyết định tăng lương phía công ty đã không thực hiện mà cắt đi những chi phí trước đó của người lao động như tiền chuyên cần, phụ cấp bằng cấp. Không những thế, hiện tại công ty đã sa thải hai nữ công nhân trên. Với lý do “công ty đang khó khăn”?”(ngưng trích) Than ôi... hãng ngoại tơi Việt Nam mở công ty, có nhiều quyền như thế ư... Trong khi đó, chính phủ lại cấm biểu tình, thì công nhân làm sao lên tiếng được... Sao những quyền biểu tình trưoơc 1975 ở Miền Nam dễ dàng quá vậy. Chế độ nào tôn trọng quyền dân nhiều hơn? Trần Khải (Việt Báo)
  21. Dưới đây là trích dẫn từ bài phát biểu tại căn cứ Không quân Côn Minh – Vân Nam của Lưu Á Châu, Trung tướng, Chính ủy Đại học Quốc Phòng Trung Quốc. Qua đó bạn đọc có thể tìm hiểu một vấn đề lịch sử nhìn từ phía bên kia và thấy rõ hơn “cung cách” Trung Quốc ứng xử với thế giới hiện đại. Sau khi kể “Giấc mơ quân đội và đất nước hùng mạnh”, tướng Lưu nói về việc “quân đội Trung Quốc đã hai lần phát huy vai trò chính trị quan trọng”. Cuộc chiến Việt Nam 1979 Một lần Quân Giải phóng phát huy vai trò chính trị quan trọng là trong đợt sóng gió chính trị ngày mồng 4 tháng 6 [sự kiện quân đội Trung Quốc đàn áp cuộc biểu tình của sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989]. “Có thể nói, không giải quyết vấn đề mồng 4 tháng 6 thì không có cục diện phát triển phồn vinh của Trung Quốc ngày nay; không có quân đội [thì] sẽ không giải quyết được vấn đề ngày mồng 4 tháng 6, và cũng không thể có 13 năm huy hoàng”. “Một lần khác là cuộc chiến tự vệ chống Việt Nam năm 1979 và cuộc chiến “Lưỡng Sơn” sau này. Đặc biệt là cuộc chiến tự vệ đánh trả Việt Nam năm 1979, nhiều đồng chí chưa nhận thức được ý nghĩa của cuộc chiến đó. Khi ấy có người nói: chúng ta đánh nhau với người Việt Nam, hiện nay, những người hy sinh là liệt sĩ, sau khi quan hệ hai nước trở lại tốt đẹp, họ sẽ là gì? Tôi trả lời: “Vẫn là liệt sĩ!”. Vì sao? Chúng ta phải nhìn nhận cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của cuộc chiến này nằm bên ngoài cuộc chiến. Cuộc chiến này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ. Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền vào năm 1978, tháng 1/1979, ông thăm Mỹ, tháng 2/1979 đánh Việt Nam. Về chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh. Vì sao? Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, chương trình cải cách mở cửa của Trung Quốc đã được ông vạch sẵn, muốn thực hiện chương trình này phải xác lập quyền lực tuyệt đối trong nội bộ Đảng. Phải đánh một trận. Khi đó, “bè lũ bốn tên” vừa bị đập tan, những người có tư tưởng cực tả trong nội bộ Đảng còn rất đông, họ vừa chống lại Đặng Tiểu Bình, vừa phản đối đường lối và chính sách của ông. Muốn cải cách phải có quyền lực. Biện pháp xác định quyền lực nhanh nhất là gây chiến tranh. Lưu Dụ (?) cũng làm như vậy. Khi đó, rất nhiều người phản đối chiến tranh, cho rằng Quân Giải phóng vừa trải qua “Cách mạng văn hoá”, không thể đánh trận được. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình rất quyết đoán, dẹp mọi tranh cãi, chỉ huy Quân Giải phóng ào ạt vượt qua biên giới vào ngày 17/2. Thứ hai là người Mỹ, ý nghĩa của việc này cũng rất lớn. Đến nay, Đặng Tiểu Bình đã xa chúng ta được 5 năm, nhưng tôi cũng luôn cảm thấy ông ở cạnh bên chúng ta. Lý Hiến Trung (Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tư lệnh Không quân Bắc Kinh) nói: “Mao Trạch Đông của chúng ta, càng ngẫm càng thấy vĩ đại”. Thời gian càng lùi xa, sự vĩ đại của Đặng Tiểu Bình càng khiến chúng ta cảm nhận rõ ràng hơn. Ông chuyển hướng cả đất nước Trung Quốc chúng ta. Các đồng chí thấy đấy, cuộc chiến này xảy ra năm 1979. Năm 1975, sau khi hao binh tổn tướng, người Mỹ cuống cuồng tháo chạy khỏi Việt Nam. Năm 1979 Đặng Tiểu Bình nói: Tôi dạy cho Việt Nam một bài học. Khi đó, Việt Nam đang theo ai? Đang theo Liên Xô. Đặng Tiểu Bình tấn công. Cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam vào lúc đó của Đặng Tiểu Bình thực sự đã đưa Trung Quốc ra khỏi cái gọi là phe xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Khi ấy, nhiều nước Đông Âu không hài lòng, nói rằng một nước xã hội chủ nghĩa lại đánh một nước xã hội chủ nghĩa khác. Khi đó, Đặng Tiểu Bình đã thấy rõ không cần thứ chủ nghĩa xã hội ấy của họ. Kết quả như thế nào? Chủ nghĩa xã hội giả hiệu đã chết yểu. Vào năm 1989, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ hàng loạt. Ngay cả Liên Xô cũng tan rã. 10 năm trước đó, Đặng Tiểu Bình đã nhận ra vấn đề này, dùng chiến tranh để vạch rõ ranh giới với các nước xã hội chủ nghĩa. Đặng Tiểu Bình thật là một kỳ tài! Vừa rồi, tôi nói gây ra cuộc chiến tranh này vì người Mỹ, chính là trả hận cho người Mỹ. Có bằng chứng không? Có đấy. Ngày hôm trước rời Nhà Trắng thì ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đánh Việt Nam. Vì sao có thể giúp Mỹ hả giận? Bởi vì, người Mỹ vừa tháo chạy nhục nhã khỏi Việt Nam. Chúng ta sao lại giúp người Mỹ hả giận? Thực ra không phải vì Mỹ, mà là vì chúng ta, vì cải cách mở cửa. Trung Quốc không thể cải cách mở cửa mà không có viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Nhờ cuộc chiến này, Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và cả viện trợ quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc. Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày 4/6/1989 mới tạm lắng. Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa đó, cống hiến của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách mở cửa thật to lớn vô cùng”.[ii] Tâm lý quân đội Trung Quốc Khi đó, tôi đến thăm bộ đội tham gia chiến đấu, họ để lại ấn tượng rất sâu đậm đối với tôi. Cải cách mở cửa đã bắt đầu, đặc biệt là khi tác chiến ở “Lưỡng Sơn”, hậu phương vẫn ca hát nhảy múa trong thanh bình. Các cán bộ chiến sĩ không những phải đối mặt với thử thách sinh tử, mà đều có gánh nặng cuộc sống. Đặc biệt là cán bộ cơ sở, hầu hết gia đình đều rất khó khăn. Lúc đó, tôi đến viếng một chính trị viên đại đội của Quân đoàn 14, anh ta đã hy sinh. Vợ anh ta gặp tôi, nói rằng, trước khi ra trận, chồng chị vẫn còn nợ tiền, khi phát lương tháng cuối cùng trước khi ra trận, trừ hết các khoản nợ, chỉ còn 5 xu tiền lương trong túi. Cuối cùng, cô ấy đưa cho tôi xem bản kê di vật, chỉ còn đúng 5 xu. Tôi thấy thật xót xa. Có một chiến sĩ gia đình nghèo đói, di chúc của họ thật đầy máu và nước mắt. Trong di chúc của một chiến sĩ, có đoạn: Nếu tôi chết, mong công xã hãy cho gia đình tôi một con bò. Có người khác viết, nếu tôi chết, hãy cởi bộ quân phục của tôi đem về quê, anh em nhà tôi không có quần áo để mặc. Xem những trang viết này thật là xót xa. Tinh thần của các binh sĩ vĩ đại như núi Thái Sơn. Từ hậu phương đến tiền tuyến, tôi thấy sự chênh lệch quá lớn, không thể nói lên lời! Không chỉ là cuộc sống mà còn những cái khác. Chẳng hạn, tôi đã từng điều tra bộ đội tham chiến ở bốn quân đoàn, những cán bộ có vợ chưa cưới thì 100% đều [bị vợ chưa cưới] từ hôn, không có trường hợp ngoại lệ. Tôi xem một bức thư đoạn tuyệt hôn nhân của một cô gái, viết cũng rất có lý: “Anh hy sinh không còn nữa thì chẳng sao; nếu anh bị thương mất chân mất tay, chúng ta sẽ biết sống ra sao?”. Đây cũng là thực tế. Một chính trị viên phó đại đội ở quân đoàn 27 dẫn đầu đội xung kích tấn công một ngọn núi, bị hy sinh, cả đội xung kích có 30 người thì hy sinh 20. Sau khi trở về, đại đội tập hợp những người sống sót trong toàn đại đội điểm danh, thi thể của chính trị viên phó đại đội và hai mươi mấy chiến sĩ đặt trên một sân phơi của dân. Vào lúc đó, thư của vợ chưa cưới chính trị viên phó cũng vừa gửi đến. Thư gì vậy? Thư cắt đứt quan hệ hôn nhân. Trước mặt những người sống sót và trước thi thể những người đã hy sinh trong đó có chính trị viên phó, đại đội trưởng đã đọc bức thư ấy, các chiến sĩ toàn đơn vị ai cũng đầm đìa nước mắt. Tôi luôn thấm thía khung cảnh khi ấy và tâm trạng của họ. Ánh sáng tính người [nhân tính] vào thời điểm ấy mới rực sáng nhất. Khi bước vào chiến đấu rất hiếm thấy lời nói hùng hồn. Thật sự có thể làm rung động lòng người thì tuyệt đối không thể tràng giang đại hải, càng không thể là đạo lý suông. Trầm tĩnh có sức mạnh lớn hơn nhiều so với ồn ào náo động. Tôi đi qua một đơn vị chuẩn bị bước vào chiến đấu, tâm trạng háo hức trước khi tham chiến của bộ đội như miêu tả trong tiểu thuyết, trên phim ảnh, truyền hình… tất cả đều chỉ là sự phóng đại. Trước khi tác chiến, một vùng bộ đội đóng quân tĩnh lặng như tờ. Cán bộ chỉ huy đều ẩn nấp ở nơi rất xa. Khi thời bình, số cán bộ chỉ huy này rất khí phách hào hùng. Có một cán bộ cho đến nay vẫn còn duy trì quan hệ với tôi. Khi đó tôi là cán bộ cấp Tiểu đoàn phó, anh là Sư đoàn trưởng. Anh gặp tôi, nói một cách khí phách: “Tôi có 3 suy nghĩ, cậu hãy viết thành sách cho tôi! Thứ nhất, tôi muốn làm George Smith Patton Jr của Trung Quốc; thứ hai, binh sĩ được coi là gì? Binh sĩ chính là những con số Ả rập; thứ 3, tôi mong mỏi được đánh trận. Đánh một trận [sẽ được] thăng một cấp”. Chính vì mấy câu nói đó, tôi đã không tha thứ cho anh ấy. Anh ấy không có thiện cảm với chiến sĩ. Thời bình, nếu Đại đội trưởng, người chỉ huy có quan hệ tốt với chiến sĩ, thì có thể đoàn kết thành một tập thể vững mạnh, nhưng nếu có chút mâu thuẫn, chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mỗi người một phách. Tuy nhiên, khi chiến tranh nổ ra, cán bộ, chiến sĩ cũng sẽ sẵn sàng xông pha không chùn bước. Các bạn đều biết tôi từng viết một tác phẩm có tiêu đề Vương Nhân Tiên. Tác phẩm này đã gây tiếng vang rất lớn. Vương Nhân Tiên là Phó Tham mưu Đại đội thuộc Sư đoàn 14, Quân đoàn 14, người Côn Minh, thuộc dòng dõi con em cán bộ. Trước chiến tranh, Vương Nhân Tiên từng bị xử lý do vi phạm kỷ luật, sau này hy sinh. Có người cho rằng anh ấy không phải là anh hùng, nhưng tôi cho rằng anh ấy là anh hùng, hơn thế nữa còn là anh hùng đích thực. Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 khi đó là XXX từng nói: “Nghe nói Lưu Á Châu muốn viết về Vương Nhân Tiên? Quân đoàn 14 có nhiều nhân vật anh hùng như vậy sao không viết, lại đi viết về một người như thế?” Người khác đem chuyện này kể với tôi, tôi chỉ bĩu môi một cách khinh thường. Hugo từng nói, trong chủ nghĩa anh hùng đích thực tuyệt đối có một chủ nghĩa nhân đạo đích thực tuyệt đối. Rủi ro của Vương Nhân Tiên chính là điển hình của chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng là điển hình của chủ nghĩa anh hùng. Vương Nhân Tiên vốn yêu một bạn gái tại Côn Minh, nhưng khi quân đội di chuyển đến Lão Sơn, cô bạn này đã cắt đứt quan hệ với anh. Sau khi quân đội tiến vào khu vực Lão Sơn, đóng quân tại một địa phương gọi là Lạc Thủy Động. Vương Nhân Tiên và một số cán bộ khác ở trong một gia đình nông dân người dân tộc Miêu. Nữ chủ nhân là một cô gái dân tộc Miêu rất xinh đẹp, vừa kết hôn không lâu, có một đứa con mới sinh. Tính cách của cô gái này tràn đầy nhiệt huyết, rắn rỏi khí khái. Đa phần các cô gái dân tộc thiểu số đều có đặc điểm chung như vậy. Không giống với các cô gái dân tộc Hán, không dám yêu cũng không dám oán hận. Dân tộc Hán là một dân tộc không có tình yêu nhất. Dù dân tộc Hán có dân số đông nhất trên thế giới, nhưng họ không có tình yêu. Ở nước ngoài vì tình yêu có thể gây chiến tranh, Trung Quốc có thể không? Ngô Tam Quế được coi là nam nhi dám chiến đấu vì tình yêu, lại vẫn bị cho là Hán gian. Cô gái người Miêu ở Lạc Thủy Động thấy Vương Nhân Tiên đẹp trai, phong độ, cao một mét tám hai. Nghe nói khuôn mặt anh ấy luôn mỉm cười. Ban đầu Vương Nhân Tiên không hề để ý tới cô ta. Phụ nữ nông thôn mà, gia cảnh rất nghèo. Mặc dù lớn lên rất xinh đẹp, nhưng đã là người có con. Trước khi bộ đội lên Lão Sơn, cô gái người Miêu đã rót nước vào bình cho tất cả các chiến sĩ đóng quân tại nhà cô và cố ý cho thêm đường vào bình của Vương Nhân Tiên, đường cho vào nhiều đến mức ngọt như mật ong. Buổi tối, cô gái người Miêu bế con đến phòng của Vương Nhân Tiên. Cô đã hành động một cách tự nhiên nhất trước mặt Vương Nhân Tiên: cởi áo cho con bú. Hai người cứ ngồi với nhau như vậy trong căn phòng. Vương Nhân Tiên ra sức rít thuốc. Anh ấy đang cố gắng kiềm chế. Nhưng cuối cùng không kiềm chế nổi. Vì sao không thể? Điều này là có lý do, lý do đó chính là ngày mai bộ đội phải lên Lão Sơn. Chuyến đi này có thể anh ấy muốn “ghi danh”. Anh ấy là người đàn ông có tâm huyết, chính trực, chưa từng quan hệ với phụ nữ. Anh khẳng định, nghĩ lại chuyện đó anh vẫn không đành lòng. Đây là lẽ hết sức thường tình của con người. Khi đó, hai người đã quan hệ trong chuồng heo. Ngày thứ 2, tình hình đột nhiên thay đổi, các cuộc tiến công đã bị hoãn lại. Kế hoạch tác chiến bị trì hoãn, vì vậy tình yêu của họ đã đến một cách tự nhiên như vậy. Bất cứ việc gì đều giống nhau, đã có một lần thì sẽ có một trăm lần. Trong những ngày đó, bất cứ nơi đâu của Lạc Thủy Động đều lưu lại những hình ảnh yêu thương của họ. Tuy nhiên, số lần quan hệ trong chuồng heo cũng tương đối nhiều. Vương Nhân Tiên sau mỗi lần làm chuyện đó đều hút thuốc, hết điếu này đến điếu khác, thật là nguy hiểm. Cô gái Miêu rất hạnh phúc, đã hát ngay tại chuồng heo. Một cô gái thật có cá tính! Sau này, người chồng của cô đã phát hiện ra, hỏi cô đã quan hệ với ai, cô không nói, cuối cùng chồng cô đã báo cáo vụ việc lên đơn vị. Tập đoàn quân 14 cảm thấy đây là một sự việc hết sức nghiêm trọng, phá hoại kỷ luật quần chúng. Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 XXX ra lệnh xử nghiêm. Quân đội đã triệu tập tất cả các cán bộ và binh lính đóng gần nhà cô gái Miêu, xếp thành hàng, gọi cho cô gái đến nhận mặt. Cô gái người Miêu thật cương nghị, hôm đó tôi cảm thấy còn phải cung kính nể phục. Cô bước tới phía trước Vương Nhân Tiên, chỉ tay nói: “Chính là anh ấy” rồi lại nói một câu gì đó, tôi nghe không hết, nhưng ý nói là tôi thích anh ấy, tôi yêu anh ấy. Trưởng ban Bảo vệ nói: “Tôi đã sớm đoán được là Vương Nhân Tiên. Tôi đã nhìn thấy đầu thuốc lá cao cấp có ở khắp nơi trong chuồng heo. Mùi thơm của những đầu thuốc này chỉ có anh ta hút”. Vương Nhân Tiên bị kỷ luật và giáng cấp từ Đại đội phó xuống cấp Trung đội. Ngày tấn công Lão Sơn, Trung đoàn điều Vương Nhân Tiên lên tuyến đầu. Ngày 12/7, một sư đoàn của Việt Nam và quân ta đã xảy ra một cuộc chiến giằng co quyết liệt tại khu vực Lão Sơn. Pháo bắn suốt ngày đêm. Vì Lạc Thủy Động cách tuyến đầu rất gần, có thể nhìn thấy một vùng trời rực lửa đạn bom. Cô gái người Miêu cứ ngồi ở đầu thôn, ngóng về phía Lão Sơn. Người chồng đã đánh cô, xuống tay rất nặng. Đầu và miệng cô đều bị chảy máu, làm cô bất động. Vương Nhân Tiên đang chiến đấu tại điểm cao nhất của mặt trận. Anh là tham mưu pháo binh, đã kịp thời báo cáo hàng nghìn tình huống cho pháo binh tuyến sau. Hoả lực pháo binh của quân ta dài như tầm mắt, dội lên đầu kẻ địch. Tháng 8, tôi leo lên Lão Sơn, nhìn xuống phía dưới, vẫn còn nhìn thấy cảnh thây xác. Đó đều là xác quân địch bị bắn chết trong cuộc chiến “12/7”. Sau này, quân địch phát hiện trên địa phương này có căn cứ, đã tập trung hoả lực đánh vào đây. Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Đồng đội của anh ấy nói rằng, khi chết, anh đang dựa vào một gốc cây và cứ đứng chết như vậy. Sau khi bộ đội rút đi, vẫn đi qua Lạc Thủy Động. Cô gái người Miêu đứng ở đầu thôn, tìm từng người, từng người một. Các sĩ quan binh lính đi ngang qua cô, họ đều cúi đầu, giống như đã phạm một lỗi lầm. Họ đã thay đổi quan điểm về Vương Nhân Tiên và khi đó đã có một tâm trạng hoàn toàn thay đổi. Cuối cùng, cô gái cũng biết Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Bạn xem cô gái đó sẽ làm gì? Cô đã bán tài sản trong nhà lấy tiền mặt, mua hai tút thuốc lá đầu lọc tương đối cao cấp, đến trước mộ của Vương Nhân Tiên, bóc hết hai tút thuốc, rồi châm lửa từng điếu từng điếu một, cắm lên mộ. Trên mộ đã cắm đầy thuốc. Khi nghe kể chuyện ấy, tôi hết sức cảm động. Năm 1984, khi tôi đến Lão Sơn thì mộ của Vương Nhân Tiên đã được xây rồi. Ban đầu, trong quân đội không ghi công cho Vương Nhân Tiên, sau này, do yêu cầu mạnh mẽ của các nhà văn như chúng tôi, Vương Nhân Tiên đã được ghi công, đại để được ghi công hạng nhất. Khi đó, tôi đi tìm bia mộ tại nghĩa trang liệt sĩ và tôi đã tìm thấy. Tôi đã học theo cách của cô gái người Miêu, bóc một bao thuốc lá, đốt từng điếu và cắm lên mộ anh. Hồi ấy tôi là Tiểu đoàn phó Ban Liên lạc Không quân. Năm 1999, tức 15 năm sau đó, khi đang đảm nhiệm cương vị Chủ nhiệm Chính trị Không quân Bắc Kinh, tôi lại cùng một vài đồng chí Trưởng ban như Vương Xuân Ba, Lưu Phan đến nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha. Lão Sơn vẫn xanh tươi như xưa. Lần đó, tôi chỉ mang rượu, thuốc lá từ Bắc Kinh, trước mộ Vương Nhân Tiên tôi đã rót rượu và châm thuốc mời anh. Tôi và các đồng chí đi cùng đều không cầm được nước mắt. Họ nói, Chủ nhiệm vẫn còn tình cảm sâu đậm với vùng đất này quá! Sau khi tôi đến công tác tại Không quân Thành Đô, tạm thời tôi vẫn chưa đi [Ma Lật Pha]. Đương nhiên là tôi muốn đi. Bia mộ ngàn năm vẫn biết nói. Khu vực Ma Lật Pha có vài nghìn ngôi mộ, đến gần mỗi ngôi mộ là đến gần một linh hồn. Đến gần nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha, những toan tính đời thường trong đầu không còn tồn tại nữa.[iii] Tác giả: Lưu Á Châu Bài đã đăng lần đầu tại trang Đông Tác Giao lưu (http://dongtac.hncity.org/) dưới tiêu đề “Vì sao Trung Quốc đánh Việt Nam?”. (Nghiên Cứu Quốc Tế) ———— TQ gọi là cuộc chiến “Lão Sơn (VN gọi là Núi Đất)” và “Giả Âm Sơn (VN gọi là Núi Bạc)”, tức cuộc lấn chiếm của TQ ở khu vực điểm cao 1509 huyện Vị Xuyên và Núi Bạc, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, VN, năm 1984. Trong một bài viết khác, Lưu Á Châu từng nói do thấy lính TQ chết nhiều quá mà điểm cao này không có giá trị chiến lược lớn, ông đã viết thư cho CTTQ Dương Thượng Côn kiến nghị hủy bỏ chiến dịch này. Mấy tháng sau phía TQ đã ngừng tấn công các điểm cao nói trên. N.D [ii] Bản dịch của TTXVN. [iii] Bản dịch của TTXVN.
  22. Anh Vũ, thông tín viên RFA 2016-02-18 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Những người đàn ông trong trang phục lễ hội truyền thống ngồi ăn trong lễ hội mùa xuân hàng năm tại đình làng Triều Khúc, Hà Nội vào ngày 16 tháng 2 năm 2016. AFP photo Bên cạnh những niềm vui do Tết cổ truyền mang đến, là nỗi lo toan về một cái tết tốn kém, lãng phí về thời gian và tiền bạc. Vậy có nên bỏ Tết Nguyên Đán để thay bằng Tết Dương lịch hay không? Tết Nguyên Đán là Tết cổ truyền, đã có từ ngàn đời nay của người Việt nam. Đây là dịp lễ quan trọng nhất để các gia đình sum họp và thờ cúng tổ tiên... sau một năm làm ăn vất vả. Nguồn gốc Tết cổ truyền Đến nay, nhiều ý kiến cho rằng Tết bắt nguồn từ Trung quốc thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, song nếu chiếu theo sự tích "Bánh chưng bánh dày" thì người Việt đã ăn tết từ thời vua Hùng, nghĩa là trước 1000 năm Bắc thuộc. Nhận định về nguồn gốc của Tết cổ truyền của người Việt, TS. Nguyễn Xuân Diện nói với chúng tôi: “Lâu nay các học giả giải thích rằng từ “Tết” có từ từ “Tiết”(cái đốt tre) của Trung quốc, nhưng các nhà ngôn ngữ thì cho rằng từ “Tết” là một từ thuần Việt, không xuất phát từ từ “Tiết” của TQ, việc đó cho đến nay vẫn đang tranh cãi. Cũng như người ta cho rằng ta ăn tết cùng với TQ vì cùng sử dụng một thứ lịch mà ta gọi là âm lịch. Song thực ra không phải như thế, cái Tết của ta là tiến hành theo lịch riêng với sự kết hợp giữa Dương lịch và Âm lịch hỗn hợp, nghĩa là cả lịch mặt trăng và mặt trời. Các học giả chuyên gia về lịch pháp như Hoàng Xuân Hãn, Lê Thành Luân mới đây đều cho rằng Âm lịch của VN là của riêng VN và khác với lịch của TQ.” Theo báo Thanh niên, từ năm 2005 GS-TS. Võ Tòng Xuân đã thấy rằng Tết Nguyên Đán và Tết Dương lịch quá gần nhau, đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Theo ông, nên chuyển các tập quán ăn Tết âm lịch sang các ngày dương lịch, để giảm dần ngày nghỉ Tết âm lịch quá lê thê. Dưới nhan đề "Muốn kinh tế hội nhập, cần bỏ Tết âm lịch" báo VTC online ngày 16/02/2016 cho biết, chuyên gia kinh tế TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, chỉ có ở Việt Nam và Trung Quốc mới có kỳ nghỉ Tết kéo dài như hiện nay. Theo ông, 1 tháng Tết làm việc trì trệ khiến nền kinh tế thiệt hại khoảng 10%. Đánh giá về các ý kiến nên bỏ Tết cổ truyền, từ Hà nội Đạo diễn Điện ảnh Đỗ Minh Tuấn nhận định: “Cái Tết Âm lịch bên cạnh cái nguồn vui của một cộng đồng thì nó cũng bộc lộ rất nhiều những cái nhược điểm của một XH nông nghiệp. Nhưng khi có điều kiện về thời gian và vật chất thì nó bộc lộ sang một hướng khác và những ý kiến nêu ra vấn đề tiêu cực của cái Tết là có cơ sở. Tuy nhiên khi người ta cho rằng phải thay đổi vì lý do kinh tế hay nếp sống, thì tôi cho rằng các lý do đó không thể đánh bại được một cái lô cốt mang bản sắc văn hóa rất bền vững như thế.” Khi được hỏi, có nên bỏ Tết cổ truyền để ăn Tết Dương lịch hay không? Có nên bỏ Tết âm lịch? Việc bỏ hay sát nhập Tết cổ truyền, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự bảo tồn những đặc trưng tín ngưỡng và văn hóa cổ truyền của dân tộc, điều đó sẽ gây ra những thiệt hại vô cùng lớn về văn hóa. TS. Nguyễn Xuân Diện tiếp lời: “Chúng ta không thể nào gộp hai cái tết vào làm một được, mà vẫn phải tôn trọng vừa có tết Dương lịch để phù hợp với trào lưu xã hội mới. Nhưng đồng thời phải giữ cáo Tết cổ truyền, vì nó là một cái tết mang bản sắc nó đã nằm trong lòng của xã hội và trong văn hóa của VN. Song phải có cách vận hành nào đó để cho nó êm ả và tốt đẹp như trước đây. Chứ còn các vấn nạn, áp lực về giao thông, thực phẩm hay an toàn XH… thì nó do con người tạo ra, chứ cái Tết nó có tội tình gì đâu?” Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn khẳng định: “Không thể bỏ được cái Tết Âm lịch, vì nó còn gắn với địa văn hóa, ngày Tết không chỉ là một sự quy ước mang tính lý trí mà nó còn gắn với thời tiết, hoa đào, nắng xuân… Cho nên nếu tổ chức theo Dương lịch thì nó đang là mùa Đông, nó sẽ không có cái cảm hứng đó, khung cảnh đó. Hai nữa là Tết không chỉ mang tính biểu tượng, mà nó thực sự gắn liền với tâm sinh lý, đến cả mùa màng, sự phát triển của cây cối trong những ngày đó.” Kể từ năm 1873 Nhật Bản đã bỏ Tết Âm lịch để chuyển sang Tết Dương lịch, song họ vẫn giữ gìn được những truyền thống văn hóa và hiện nay Nhật Bản đang là quốc gia hàng đầu thế giới. TS. Nguyễn Xuân Diện thấy rằng muốn làm được như nước Nhật thì cần phải có một sự cải cách triệt để, toàn diện và sâu rộng. Ông nói: “Muốn đổi hay chuyển việc ăn tết âm lịch sang tết dương lịch nghĩa là thay đổi về văn hóa và phong tục thì trước hết phải có sự cải cách lớn về thể chế, để đưa cả một đất nước chuyển mình sang một hệ thống mới thì mới làm được. Chứ nếu bây giờ chỉ ra một văn bản quyết định thôi ăn tết Âm lịch thì tôi nghĩ rằng nhân dân sẽ không theo, nhất là đây là một phong tục có từ lâu đời thì việc ban hành bằng mệnh lệnh hành chính thì không có giá trị gì hết.” Trao đổi với VTC, Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng"Tuy nhiên thời đại lúc đó và bây giờ khác nhau hoàn toàn, nên không thể áp dụng. Khi ấy Nhật Bản không còn con đường nào khác, buộc phải thay đổi để phát triển. Việc này không thể áp dụng vào Việt Nam ở thời điểm hiện tại." Trên thực tế, từ năm 1994 chính quyền VN đã dùng mệnh lệnh hành chính để cấm đốt pháo trong dịp Tết và đã thành công. Liên hệ với việc bỏ Tết Nguyên Đán cổ truyền, Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn nhận xét: “Bỏ Tết là vấn đề lớn hơn nhiều việc bỏ đốt pháo, ta có thể bỏ rượu, bỏ bánh chưng nhưng không thể bỏ Tết cổ truyền. Vì những thứ rượu, pháo, bánh chưng chúng ta có thể vì hiện đại hóa thì có thể bỏ được, cũng như ta bỏ được nén hương nhưng không bỏ được tâm linh. Vì thế Tết cũng như bàn thờ, là bản sắc thiêng liêng của cả dân tộc, nó cũng như đám tang, đám cưới không thể bỏ được. Và càng không thể quy chuẩn hóa theo kinh tế luận hay chính trị luận để đưa nó vào guống quay của thế giới.” Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn thấy rằng, ý kiến nên bỏ hay gộp Tết cổ truyền có giá trị nhằm thức tỉnh và nhắc nhở. Ông cho biết: “Duy trì Tết cổ truyền là điều tất nhiên rồi, song việc kéo dài ngày tết như 9 ngày vừa qua theo tôi là nó không nên. Nó cần phải được hạn định trong một cái khuôn khổ mang tính quy chuẩn, vì sự kéo dài đó nó sẽ sinh ra sự trì trệ. Trong thời đại hội nhập mình phải thực hiện cam kết với thế giới về kế hoạch và nhịp sống, vì thế mình không thể nhân danh bản sắc dân tộc để lè phè mãi thì cũng không được.” Theo Nhà sử học Dương Trung Quốc "Chúng ta vẫn nên giữ nguyên Tết Âm lịch như hiện nay nhưng nên bố trí sao cho ngày nghỉ hợp lý, thuận lợi nhất đối với người dân, điều chỉnh các tập quán xã hội như hạn chế tình trạng tràn lan lễ hội... sao cho khai thác được các giá trị tích cực và hạn chế được giá trị tiêu cực.". Điều đó cũng sẽ giúp cho việc bảo tồn những di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc.
  23. Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ 2016-02-18 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Tên lửa DF-5B được quân đội Trung Quốc diễu hành tại Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh ngày 03 tháng 9 năm 2015, kỷ niệm lần thứ 70 chiến thắng Nhật Bản và kết thúc chiến tranh thế giới II. AFP photo Trung Quốc triển khai tên lửa phòng không và radar trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa ngay thời điểm mà thượng đỉnh Hoa Kỳ- ASEAN diễn ra ở bang California, Hoa Kỳ. Gia Minh hỏi chuyện tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam. Trước hết ông lý giải hành động mới nhất của Trung Quốc tại Biển Đông như sau: Tôi nghĩ là sự kiện này xảy ra vào cái lúc Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN với Hoa Kỳ họp vừa rồi. Các tiếng nói của các lãnh đạo của các nước ASEAN cũng như của Hoa Kỳ gần như là thống nhất. Vì vậy mà Trung Quốc tính toán triển khai một cách rất là mạnh mẽ hành động quân sự hóa này để có thể thách thức, đe dọa, tìm biện pháp mạnh nhằm phá hoại tiếng nói chung của các nước ASEAN trong việc hợp tác cùng Hoa Kỳ, ngăn chặn các bước tiến của Trung Quốc. Tôi thấy ý nghĩa của việc đó là như vậy. Thứ hai, cũng là một cách mà chúng ta có thể hiểu rằng là TQ đang trả lời, thách thức các nước trong khu vực, đặc biệt là Mỹ là vì như chúng ta đã biết là vừa rồi Mỹ đã đưa tàu chiến vào tuần tra trong phạm vi 12 hải lý quanh đảo Tri Tôn của Hoàng Sa. Đây có thể là TQ mượn cớ này để tăng cường hoạt động quân sự mạnh mẽ hơn nữa để nhằm thực hiện các mục đích lớn hơn mà họ đã đặt ra. Với hành động đó, họ thử xem phản ứng của các nước, dư luận của quốc tế như thế nào để họ tiếp tục triển khai một bước nữa về việc đưa các vũ khí hiện đại nhất xuống quần đảo Trường Sa, như chúng được biết là họ đã từng làm trong thời gian vừa rồi như cải tạo biển, xây dựng đảo nhân tạo, xây dựng đượng băng, xây dựng các cầu tàu, xây dựng các căn cứ quân sự và bây giờ tiếp tực đưa các vũ khí xuống. Điều đó chứng tỏ họ có những bước đi hết sức mạnh mẽ và có thể nói rất là phiêu lưu và là một phản ứng hết sức là nguy hiểm cho nền hòa bình ổn định trong khu vực. Cộng đồng quốc tế đang cố gắng hết sức mình để kiểm soát mọi hoạt động đó. Việc này là một động thái hết sức nguy hiểm, một sự đe dọa mạnh mẽ, rõ ràng bất chấp sự lên án của quốc tế và họ hết sức quyết tâm trong việc quân sự hóa khu vực này. Gia Minh: TQ trước đã từng nói là không quân sự hóa biển Đông và những cơ sở họ xây dựng nhằm mục đích phục vụ cho những mục tiêu dân sự cứu nạn, nhân đạo. Ngày hôm nay, chính ông Vương Nghị cũng nói với bà Ngoại trưởng Úc rằng báo chí làm lớn chuyện lên mà không đế ý đến những việc mà TQ làm tốt trong khu vực như là những hải đăng trên các đảo để tàu thuyền qua lại. Tiến sĩ thấy lời nói và việc làm của TQ như thế nào? Tiến sĩ Trần Công Trục: Câu chuyện mọi người đều biết và càng ngày càng có thể nhận ra đó là TQ nói không bao giờ đi đôi với việc làm. Họ nói một đường làm một nẻo. Đặc biệt là trong những phát biểu ngọai giao họ tỏ rõ ra mềm dẻo và thiện chí nhưng trong thực chất là để che đậy hành động hết sức trắng trợn của họ. Càng ngày họ càng chứng tỏ điều đó. Lập luận của TQ là để che mắt dư luận thôi như họ nói là chỉ nhìn vào việc TQ quân sự hóa mà không nhìn đến những căn cứ, cơ sở mà TQ phục vụ dân sự. Những việc đó chỉ là những lời nói suông thôi. Thực chất tất cả những động thái mà họ làm đều nhắm vào mục đích củng cố căn cứ, cơ sở quân sự, các phương tiện quân sự để đe dọa. Thậm chí, khi có thời cơ, họ dùng những cơ sở đó để mở rộng sự chiếm đóng của mình và khống chế các hoạt động hàng không và hàng hải quốc tế đi qua biển Đông và làm nguy hại đến các quyền và lợi ích chính đáng của các nước trong khu vực và của quốc tế. Tôi nghĩ đó là cái cách TQ thực hiện. Đây có lẽ là hành động khẳng định cách làm của TQ và trả lời cho những ai mà từ trước cho đến nay cho rằng TQ vẫn còn thiện chí, TQ là cứu tinh của nhân loại, TQ là không bao giờ muốn chiến tranh, quân sự hóa. Gia Minh: Tiến sĩ có nhắc đến là trong tình hình hiện nay, TQ triển khai dàn hòa tiễn đất đối không như dàn rada ở Phú Lâm là do sự kiện Thượng đỉnh Mỹ và ASEAN ở Sunnyland, Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thực tế theo báo cáo chung thì thượng đỉnh này không đề cậ cập đến TQ . Như vậy, đây cũng là sự thành công của TQ đối với một số nước của ASEAN. Như vậy rồi cũng có thể cũng không đi đến đích được. Tiến sĩ Trần Công Trục: Tôi cũng có đọc kỹ cái luật chung về hội nghị thượng đỉnh đó với mười mấy điểm rất là cụ thể và mạnh mẻ hơn so với trước đây, theo ý kiến cá nhân tôi. Đặc biệt là nhấn mạnh các nước ASEAN và Hoa Kỳ có sự thống nhất với nhau nhằm đảm bảo quyền tự do hàng hải, hàng không trong khu vực biển Đông; Đảm bảo hòa bình ổn định trong khu vực không để những xung đột xảy ra; Không quân sự hóa khu vực này. Tôi cho rằng, cho dù không nói đến TQ nhưng điều này rõ ràng là nhằm vào TQ. Bởi TQ đang triển khai hết sức mạnh mẻ các hoạt động quân sự của họ để thực hiện chiến lược chiếm biển Đông, dùng biển Đông để trở thành siêu cường trên quốc tế. Như vậy, rõ ràng đây là một tuyên bố rất có ý nghĩa: nó có thái độ mạnh mẻ hơn, cụ thể hơn. Đặc biệt, điều này cho thấy một sự thống nhất mới trong các nước ASEAN và cùng có tiếng nói chung với Hoa Kỳ, một cường quốc có trách nhiệm đối với khu vực châu Á Thái Bình Dương và khu vực ASEAN. Gia Minh: Một lần nữa xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Công Trục về những nhận định của ông đối với diễn tiến mới nhất đang xảy ra ở biển Đông.
  24. Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2016-02-18 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Hệ thống tên lửa của Trung Quốc, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP Ngày 17 tháng Hai vừa qua nguồn tin từ các hãng truyền thông quốc tế cho biết Trung Quốc đã đem tám bệ phóng tên lửa đất đối không tới đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việc làm này vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và gây căng thằng thêm cho vấn đề Biển Đông. Mặc Lâm phỏng vấn GS Jonathan London, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam để biết quan điểm của ông về việc này. GS Jonathan từng làm việc tại Việt Nam nhiều năm và hiện đang giảng dạy tại Đại Học Đô thị Hongkong. Thông điệp gì cho Mỹ? Mặc Lâm: Thưa GS việc Trung Quốc mang hai bệ phóng tên lửa vào đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa của Việt Nam đã gửi một thông điệp gì tới cho Mỹ và các nước trong khu vực? GS Jonathan London: Chắc chắn là Trung Quốc đang tiếp tục làm những gì mà họ muốn, Tôi nghĩ rằng họ đặt tên lửa ở đảo Phú Lâm thì chẳng có gì là bất ngờ lắm, có thể Việt Nam và cộng đồng quốc tế bị shock một chút nhưng Mỹ cũng như Việt Nam và các nước khác đã chờ đợi sự kiện tương tự như thế từ lâu rồi. Đây là một thông điệp có khả năng chủ yếu cho chính dân chúng của Trung Quốc vì mục đích chính trị hơn là đối với bên ngoài bởi vì sự kiện này không hay cho lắm. Đây là hành động tiếp nối của Trung Quốc vì tuần trước nó đã tuyên truyền hình ảnh tàu sân bay với những tên lửa tầm xa cho quốc tế lẫn dân chúng trong nước thấy sức mạnh của họ. Tôi nghĩ đây là cách đánh lạc hướng nền kinh tế đang gặp khủng hoảng của Trung Quốc. Mặc Lâm: Thượng đỉnh Sunnylands vừa mới ra thông cáo chung trong đó nhiều đề mục nhằm giải quyết tình trạng tranh chấp một cách ôn hòa, nhưng trước thái độ quá khích của Trung Quốc liệu các nước sẽ có những hội ý khác nhằm giải quyết căng thẳng do Trung Quốc gây ra hay không? GS Jonathan London: Tôi nghĩ kết quả tuyên bố chung của hội nghị Sunnylands là một thành công khá lớn. Không chỉ Mỹ mà Việt Nam và những nước khác có quan tâm đến vấn đề Biển Đông. Dù tác động của nó chưa chắc đủ mạnh nhưng ít nhất những nước đã tham gia, đã cùng nhau có chung một tuyên bố với 17 điểm mà khi đọc nội dung của tuyên bố đó thì thấy quá hợp lý và có thể gọi là hấp dẫn nữa! Nhất là việc họ đã thống nhất về các tranh chấp ở Biển Đông phải được giải quyết bằng nguyên tắc luật pháp quốc tế. Đây là một tiến triển rất quan trọng không chỉ tiêu biểu mà nó sẽ có một số tác động cụ thể để việc đối phó với Trung Quốc trong những ngày tới. Vì vậy chúng ta không nên đánh giá thấp tuyên bố chung này và xem nó như những văn bản có tính cách trình diễn mà không thể thực thi. Thông điệp từ bản tuyên bố chung Sunnylands rất rõ ràng nó tạo lối đi chung cho các nước trong khu vực trong thời gian tới. Mặc Lâm: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã công khai yêu cầu Mỹ phải mạnh mẽ hơn và hành động thực tế hơn, hiệu quả hơn… theo GS đây có phải là thông điệp chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam được Thủ tướng chuyển lại hay chỉ là ý riêng của ông Dũng muốn lấy lòng người dân trước khi về hưu? GS Jonathan London: Thông điệp của ông Nguyễn Tấn Dũng đưa ra tại Sunnylands là của cá nhân ông ấy hay của Đảng Cộng sản Việt Nam có lẽ không quan trọng vì ông đã nói trước thế giới điều này cho nên nó xứng đáng. Nó là ý muốn của dân chúng Việt Nam nên chúng ta không nên suy đoán nó là của ai. Tôi nghĩ thông điệp này về mặt nội dung nó đảm bảo cho quyền lợi của đất nước Việt Nam. Tôi quan sát và thấy sự tham gia của ông Nguyễn Tấn Dũng tại Sunnylands là một quyết định rất tốt. Tôi không rõ là quyết định của ai, nên hay không nên tin vào nguồn tin cho rằng ông Dũng quyết định đi vào phút chót, nhưng dù sao việc ông có mặt cũng là điều tốt cho Việt Nam nói chung cho quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ nói riêng. Tôi biết tình cảm người Việt Nam trong nước cũng như trên thế giới đặt vào chuyến đi này rất nhiều cho nên dù có tin hay không việc ông bị cản trở mà ông vẫn xuất hiện thì đó là dấu hiệu tốt cho bang giao hai nước. Không thay đổi hành vi của Mỹ? Mặc Lâm: Thưa GS, quay trở lại vấn đề Trung Quốc đặt tên lửa ở đảo Phú Lâm, tại Sunnylands vừa rồi Tổng thống Hoa Kỳ xác định là vẫn tiếp tục bay và đi lại trên các khu vực mà quốc tế cho phép kể cả các nơi mà Trung Quốc bồi lấn trái phép… sau khi Trung Quốc đem tên lửa trang bị trên đảo Phú Lâm, liệu Hoa Kỳ sẽ giữ lời hứa với các nước ASEAN không? GS Jonathan London: Tôi tin chắc rằng Mỹ sẽ tiếp tục bay và có những hoạt động trên khu vực Biển Đông phù hợp với luật lệ quốc tế như họ đã làm trước đây, nếu không thì mọi nỗ lực xoay trục về Châu Á Thái bình dương xem như thất bại và vì vậy câu trả lời của tôi là Hoa Kỳ không thể ngưng các hoạt động này được. Trung Quốc đặt tên lửa trên đảo Phú Lâm trái với tinh thần luật pháp quốc tế vì vậy có khả năng không chỉ một mình Mỹ mà các nước khác trong khu vực sẽ có hành động mạnh. Tuy nhiên còn quá sớm để đánh giá tác động của nó cụ thể sẽ như thế nào. Tóm lại tôi tin là việc đặt tên lửa của Trung Quốc ở đảo Phú Lâm sẽ không thay đổi hành vi của Mỹ. Mặc Lâm: Nếu Mỹ tiếp tục bay và cho hải quân tiếp tục tới các khu vực mà Trung Quốc cho là của họ một cách trái phép, thử nêu ra một kịch bản tương đối có thể xảy ra: Nếu Trung Quốc chỉ bắn dọa thôi thì theo ông Mỹ sẽ xử lý ra sao? GS Jonathan London: Chúng ta không nên phỏng đoán nhiều quá, nhưng hy vọng rằng diều này sẽ không xảy ra. Ta đã thấy là Trung Quốc đã có một động thái lộ rõ ý muốn xâm lược và đây là hành vi hết sức ngu xuẩn vì tự cô lập mình. Nó giúp cho các nước đang có tranh chấp trong vấn đề Biển Đông sẽ có cớ kết hợp với nhau tạo ra một liên minh nào đó, không hẳn là một liên minh chính thức mà có thể là một nhóm công tác để có những giải pháp cụ thể để trả lời những hành vi của Trung Quốc. Mặc Lâm: Xin cảm ơn GS.
  25. Nhiều người ở Hà Nội tưởng niệm cuộc chiến 1979 hôm 17/2/2015 Đánh dấu ngày 17/2/1979, có thêm ý kiến từ Việt Nam nói cần đưa cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1979 vào sách giáo khoa. Ngày 17/21979 đánh dấu việc Trung Quốc đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam, bắt đầu cuộc chiến 17 ngày đẫm máu. Năm nay, một số tờ báo ở Việt Nam đặt vấn đề cần công khai phổ biến cho thế hệ trẻ về sự kiện này. 'Cần sòng phẳng' Nói với báo Pháp Luật TP. HCM trong bài đăng ngày 18/2, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, cựu đại biểu Quốc hội, cho biết cuộc chiến đã được đưa vào sách dành cho bậc đại học. “Nhưng sách giáo khoa phổ thông thì chưa có.” “Sách giáo khoa không chỉ viết về cuộc chiến tranh biên giới 1979 mà còn phải viết về những trận chiến tại Hoàng Sa, Trường Sa. Cần phải sòng phẳng với lịch sử.” Trên tờ báo này, Thiếu tướng, PGS-TS Nguyễn Xuân Thành, từ Học viện Quốc phòng, cũng kêu gọi đưa sự kiện 1979 vào sách giáo khoa. “Việc đưa cuộc chiến tranh biên giới 1979 với Trung Quốc vào sách lịch sử và giáo khoa phải được coi là hành động làm rõ sự thật lịch sử, nói rõ với nhân dân và các thế hệ sau sự thật về bản chất của cuộc chiến tranh này.” Trên báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 17/2, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu IV, nói không được lãng quên. “Nếu chúng ta không nhắc đến bài học lịch sử ấy, không thể hiện sự trân trọng những điều ấy thì sau này khi có kẻ thù còn ai sẵn sàng xông pha?” Nói với báo Người Lao động, một vị tướng khác, Thiếu tướng Lê Mã Lương, cũng kêu gọi cần đưa sự kiện 1979 vào sách giáo khoa “một cách nghiêm túc, đầy đủ”. Hôm 17/2, truyền thông trong nước cũng đưa tin Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dâng hương tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Trà Lĩnh - Cao Bằng. Nơi này chôn cất 300 liệt sĩ hy sinh trong thời gian đầu của cuộc chiến biên giới 1979. Trước đó hôm 16/2, ông Trương Tấn Sang đã đến nghĩa trang liệt sĩ thành phố Lạng Sơn. Đây cũng là nơi chôn cất hơn 300 liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến với Trung Quốc năm 1979. (BBC)

×
×
  • Create New...