Jump to content

xứ việt

Administrators
  • Posts

    39428
  • Joined

  • Last visited

Everything posted by xứ việt

  1. Cát Linh, phóng viên RFA 2016-03-06 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Ca sĩ Ngọc Lan - một hiện tượng của văn nghệ Việt Nam đầu thập niên 90. Mây Production's Facebook Ngày này, 15 năm trước (06/03/2001), làng âm nhạc Việt Nam chia tay một người con gái với tiếng hát được biết đến như một hiện tượng của văn nghệ Việt Nam đầu thập niên 90. Cô ra đi để lại nhiều giai thoại về những ngày cuối đời của mình. Đó là Ngọc Lan, người ca sĩ với gương mặt khả ái và tiếng hát nhẹ như sương. Cát Linh mời quí vị quay về những ca khúc đã mang cô đến với khán giả Việt Nam, nghe lại chính những lời tâm sự của cô trong những ngày chưa rời xa thế giới này, cùng những kỷ niệm trong thời gian làm việc với cô do ông Trần Thăng, giám đốc trung tâm ca nhạc Mây Production kể lại. “Mưa buồn mãi rơi trên biển xưa âm thầm Ôi biển vắng đêm nao tình trao êm đềm Cơn sóng nào khơi lên nỗi đau trong em bao nhiêu chiều Lang thang một mình…” (Mưa trên biển vắng) “Ngọc Lan rất muốn có cơ hội để phát triển khả năng của mình trên mọi lĩnh vực. Thứ nhất là để thoả mãn đam mê nghệ thuật của chính mình. Thứ hai là Ngọc Lan hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình vào lãnh vực thứ bảy của Việt Nam…” Chắc có lẽ chúng ta, những ai đã từng có một thời nồng nàn với Mưa trên biển vắng, với Hai mươi năm tình cũ, với Mùa đông sắp đến trong thành phố, hay những ca khúc Pháp lời Việt như Joe Le Taxi, Mal De Toi, La Plus Belle Pour Aller Danser (Em đẹp nhất đêm nay)… thì sẽ không thể nào quên tiếng nói trong vắt, nhẹ như sương ấy, tiếng hát Ngọc Lan, người ca sĩ sở hữu gương mặt hiền như thánh nữ. Cô chia sẻ giấc mơ nghệ thuật đó với khán giả và MC Nam Lộc cách đây 24 năm, trong đêm nhạc đầu tiên của Mây Production Hollywood Night 1. Đêm ấy cũng là lần đầu tiên cô trình bày Mưa trên biển vắng, một ca khúc lời Việt của cố nhạc sĩ Nhật Ngân. 15 năm sau, mơ ước ấy đã bay về trời cao, mang theo người ca sĩ tài hoa đoản mệnh. “Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em Có khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ nhớ tên em Gót chân đôi khi đã mềm gọi buồn cho mình nhớ tên…” (Chiều một mình qua phố) Những thuở ban đầu Không khó để tìm thấy những bài viết về cô, người nữ ca sĩ tài sắc vẹn toàn nhưng vắn số. Thế nhưng, rất hiếm, nếu không muốn nói là không có, những bài phỏng vấn về cô. Tất cả những gì chúng ta có thể tìm được là những tình cảm chưa bao giờ dứt của người ở lại dành cho nữ ca sĩ tài hoa bạc mệnh này. Hình bìa trong album thứ 5 của ca sĩ Ngọc Lan. “Ngọc Lan là một người gần như là không có những sự bon chen về thương mại. Ngọc Lan rất ngại khi được người ta nói về mình, viết về mình. Gần như là Ngọc Lan trốn tránh hết những cái đó. Chính vì những cái đó tạo ra cho mọi người thấy rằng Ngọc Lan là một người mà người ta lúc nào cũng muốn tìm hiểu thêm, biết thêm.” Người rất gần gũi trong suốt sự nghiệp của cô, ông Trần Thăng, giám đốc của Mây Production, khi nhớ về cô, ông luôn nói rằng “chúng tôi làm chương trình với Ngọc Lan, chứ không làm cho Ngọc Lan.” Ông nhấn mạnh, đó là tính cách của cô. Ngọc Lan hoàn toàn không tạo ra điều đó. Sự bình dị ấy tự nhiên như tiếng hát của cô, không cầu kỳ, không phô trương kỹ thuật. “Trong đôi mắt anh em là tất cả Là nguồn vui, là hạnh phúc em dấu yêu Nhưng anh ước gì Mình gặp nhau lúc em chưa ràng buộc Và anh chưa thuộc về ai…” (Như đã dấu yêu) Tiếng hát nồng nàn, cao vút và nhẹ như sương khói ấy đi vào lòng người ngay từ những ngày đầu tiên trong nghiệp hát. Cô chinh phục khán giả không chỉ bằng chất giọng êm đềm, phong cách dịu dàng mà còn với cả sự chân tình trong lời nói. “Lan nghĩ mọi người có một nghiệp dĩ. Và nghiệp dĩ của Lan đã gắn liền với cuộc sống ca hát. Cho nên từ sự tình cờ này nối tiếp sự tình cờ khác mà ngày hôm nay Lan trở thành một ca sĩ mang tên Ngọc Lan và được trình diễn trên đây cho tất cả quý vị.” Đối với người con gái này, hình như tất cả đều là định mệnh. Cô nhìn cuộc đời và sự nghiệp của mình nhẹ như sương như khói. Cô càng nâng niu trân trọng khán giả bao nhiêu thì cô càng khắt khe với chính mình bấy nhiêu. “Trong suốt thời gian sinh hoạt văn nghệ, tôi chỉ thấy ca sĩ Ngọc Lan là một người có tinh thần làm việc có thể nói rằng không ai sánh bằng. Tất cả những thành quả mà Ngọc Lan có được phần lớn là do Ngọc Lan chứ không phải do trung tâm hay do ai mà có thể làm ra như vậy được. Ngọc Lan là một người ca sĩ rất hiếm quý của nền âm nhạc Việt Nam.” Hình như khi nghe cô hát, nhìn cô trình diễn trên sân khấu người ta cảm thấy mọi sự hận thù không có chỗ đứng trong thế giới này. Cho dù, nhìn cô hát, chúng ta cứ ngỡ như đang chiêm ngưỡng một bức tranh hoạ người thiếu phụ buồn, buồn từ đôi mắt đến dáng người, và giọng hát. “Chuyện tình mười mấy năm qua nay bỗng xót xa những khi sầu dâng. Còn đâu ngày quen biết nhau đã yêu em rồi, yêu cả cuộc đời…” (Tình phụ) Ngọc Lan đa tài. Đúng thế. Có nghe cô nồng nàn với những ca khúc Pháp trữ tình lời Việt mới thấy được vì sao Ngọc Lan là một hiện tượng của thập niên 90. “Ngày đó cứ ngỡ với nhau ta muôn đời chung bước về / Tình mới đó quá đắm say thoáng đã nghe những ê chề / Người hỡi có nhớ tới em những đêm xưa ta say ân tình…” (Comme Toi - Người yêu dấu ơi) Bao nhiêu là thế hệ thanh niên trưởng thành ở thập niên 90 thời đó từ phía bên kia bờ đại dương đã say mê bầu trời trong vắt với vô vàn vì sao, đắm mình nghe tiếng sóng biển giữa bãi khuya, chỉ qua tiếng hát ngọt ngào của cô “Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya Tôi đi vào thương nhớ, Tôi đi tìm cơn gió Tôi xây lại mộng mơ năm nào Bờ biển sâu, hai đứa tôi gần nhau…” (Nha Trang ngày về) Nhà văn Đỗ Vẫn Trọn, trong bài viết “Ngọc Lan một vầng trăng” có nói rằng: “Ngọc Lan chưa phải là một nhan sắc rực rỡ đứng ở tiền trường. Ngọc Lan – chưa phải là một giọng ca dội cuốn năm châu – nhưng Ngọc Lan, từ nhan sắc đến giọng ca của nàng đã thực sự trở thành giấc mơ thầm kín, trở thành ao ước ngọt ngào, kín lặng của những tâm hồn trai mới lớn, của những gương thanh niên vào đời, hăm hở chân đi.” Những ngày cuối… Không dễ dàng chút nào khi nói về một huyền thoại. Ngọc Lan là một huyền thoại. Một huyền thoại trong vắt mà người đời chỉ có thể tìm thấy những tì vết cho chính người đời thêu dệt. Ca sĩ Ngọc Lan trong một album do công ty Mây Production sản xuất. Khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp, cô phát hiện mình có bệnh, căn bệnh đa thần kinh hoá sợi tác động vào trung khu thị lực của cô. Nhưng không như những lời đồn đoán bên ngoài rằng người ca sĩ khả ái này đã bị mù, ông Trần Thăng cho biết những ngày sau đó, cô vẫn ngồi làm việc cùng ông trên những tác phẩm do Mây Production và Ngọc Lan cùng thực hiện. “Ngọc Lan vẫn ngồi editing với tôi, vẫn xem được video. Nhưng Ngọc Lan nói rằng Lan chỉ nhìn thẳng được thôi, cũng như Lan nhìn vào cái ống nhòm. Lan không thấy được những gì xung quanh. Lan chỉ thấy phía trước thôi. Không phải là Ngọc Lan không nhìn thấy. Ở ngoài thì người ta bắt đầu nói Ngọc Lan bị tiểu đường hay bị gì đó, hoàn toàn không có. Thậm chí có người gọi cho tôi nói là hôm nay tôi mới đi lễ cầu nguyện cho linh hồn cô ấy, người ta nói cô ấy mất rồi. Tôi không nói những điều đó với Ngọc Lan. Nhưng rồi cô ấy cũng biết. Và cô ấy chỉ nói rằng anh Thăng ơi, khi nào Lan không còn hát được nữa thì cho Lan biết để Lan ngưng, chứ Lan không muốn kéo dài mãi.” Loài hoa bất tử Ngọc Lan là một hiện tượng mà cho đến hơn mười lăm năm sau, kể từ ngày cô tạm biệt thế giới này, người ta vẫn còn nhắc, nói, nhớ về cô với vẹn nguyên hình ảnh một gương mặt đẹp khả ái, hiền hoà luôn phảng phất một nỗi buồn. Cái buồn làm cho người đối diện cảm thấy như cô có thể vỡ tan bất cứ lúc nào. “Thực sự vì mình đang nói chuyện qua điện thoại, nếu mà bây giờ đang là video thì sẽ thấy mắt tôi đang ứa lệ. Vì mỗi lần nhắc đến Ngọc Lan thì nhắc lại cho tôi nhiều kỷ niệm.” Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu. Ngọc Lan, người con gái mong manh với tiếng hát nhẹ như sương đã đến một nơi rất xa. Nơi đó tuy không có bờ cát trắng, không có những tiếng vỗ tay đón chờ cô cất tiếng hát, nhưng chắc chắn, cô sẽ nghe được lời gọi của những người ở lại, luôn gọi tên cô với tình yêu chưa bao giờ dứt.
  2. Hoàng Dung, thông tín viên RFA 2016-03-06 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Các công nhân nữ trong một xưởng may. AFP PHOTO Việt Nam được coi là một nước đang phát triển, với một lực lượng lao động trẻ, dồi dào và có nhiều tiềm năng, tuy nhiên lương của công nhân Việt Nam đang ở mức thấp và cuộc sống của công nhân gặp nhiều khó khăn. Thu nhập của công nhân Theo nghị định 122/2015/NĐ-CP ban hành ngày 14 tháng 11 năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2016 quy định mức lương tính theo vùng, với mức lương tối thiểu, cụ thể: Đối với vùng 1 mức lương là 3.500.000đ/tháng, vùng 2 mức lương 3.100.000đ/tháng, vùng 3 – 2.700.000đ/tháng, vùng 4 – 2.400.000đ/tháng. Đây là mức lương tối thiểu mà khi doanh nghiệp phải thỏa thuận để trả cho các công nhân không bao gồm các khoản trợ cấp cũng như phụ cấp thêm hay là thời gian làm thêm giờ của công nhân. So với các nước cùng khu vực thì mức lương tối thiểu của công nhân Việt Nam là thấp nhất. Đó là quy định của chính phủ với mức lương tối thiểu cho công nhân, tuy nhiên thực tế thì không như vậy, có nhiều doanh nghiệp không trả lương cho công nhân theo quy định đó, có công ty lại bớt chỗ này để bù vào chỗ kia. Anh Trần Văn Điển một công nhân làm ở công ty sản xuất giấy An Hòa, tỉnh Tuyên Quang cho biết, lương cơ bản của anh là 2.500.000đ/tháng, cộng tất cả các khoản trợ cấp và phụ cấp thì anh được 3.700.00đ/tháng, ngoài ra anh không được hỗ trợ nào thêm, dù làm việc trong môi trường rất ô nhiễm về chất hóa học. Nhưng theo nghị định của chính phủ về việc tính lương theo vùng thì 1 tháng anh phải được 3.100.000đ/tháng không bao gồm các khoản phụ cấp và trợ cấp. Anh Điển tiếp lời: “Lương làm của em là 2.500.000 ngàn đồng, cộng thêm các vào là 3.700.000, không có hỗ trợ gì nữa, tiền lương 3.700.000 là quá ít so với mặt bằng chung ở các tỉnh thành.” Chị Nguyễn Thị Yến, một công nhân quê ở Nghệ An làm tại khu công nghiệp Nam Cấm ở Nghệ An cũng cho biết. “Lương cơ bản của em là 2.850.000, nếu tăng ca đều đều 1 tháng 48h thì 1 tháng được khoảng 4.500.000.” Trong khi những tỉnh thành khác thì lương cơ bản khá thấp thì các khu công nghiệp trên địa bàn Tp Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai… cao hơn nhiều. Chị Huệ làm trong công ty Sprinta ở Bình Dương cho biết: “Lương cơ bản được 4.100.000, kể cả làm thêm giờ 1 tháng em được 6.000.000.” Làm thêm giờ Làm việc trong công ty sản xuất giấy An Hòa, anh Điển cho biết đây là công ty sản xuất theo dây chuyền nên không có tăng ca, thêm giờ, nên 1 tháng tất cả các công nhân chỉ nhận được 3.700.000đ, nhưng theo anh với mức tiền này công nhân họ chỉ đủ sống qua ngày, nhất là đối với những người không phải dân bản xứ phải đến thuê ở trọ, chứ chưa tính đến việc ốm đau hay là trợ giúp thêm cho gia đình. Còn anh Điển là dân bản xứ mọi sinh hoạt cùng với gia đình, ngoài ra mỗi khi làm ở công ty về anh còn kiếm việc để làm thêm nên thu nhập có khả hơn. Một lao động Việt Nam của nhà máy phát điện tuabin đứng kế các thành phần tuabin gió bên trong một dây chuyền lắp ráp tại thành phố ven biển phía Bắc của Hải Phòng. Anh Điển tiếp lời: “Một ngày em có thể làm được 15, 16 tiếng, có khi em làm thêm, phụ thêm để đủ ăn mà thôi. Chứ còn như những người nào mà đến đây ở trọ mà để làm ăn thì với mức lương 3.700.000 thì chỉ gọi là ăn cho qua ngày thôi vì nó quá thấp. Còn chưa nói đến chuyện ốm đau hay là bệnh tật, hay là gia đình còn có ai ốm đau nữa thì chắc là không đủ sinh sống.” Trong khi anh Điển ngoài thời gian làm việc ở công ty thì anh phải tìm thêm cho mình một công việc khác để tăng thu nhập cho cho mình thì phần lớn các công nhân làm việc trong các khu công nghiệp thì họ phải làm tăng ca để có thêm thu nhập cho cuộc sống, vì theo nhiều công nhân cho biết, lương cơ bản của họ thì chỉ để giúp họ chi trả cho cuộc sống trong tháng đó, nếu tháng đó không có ốm đau, không có đám cưới… thì như thể họ mới đủ. Còn tiền làm tăng ca thì đó mới là tiền để họ trợ giúp cho gia đình, vì khi ra đi làm thì gánh nặng gia đình, nuôi các em ăn học… đè nặng trên vai họ. Theo quy định của công ty thì lương cơ bản của công nhân là một ngày làm việc 8 tiếng, nhưng vì gánh nặng gia đình nên nhiều công nhân làm việc mỗi ngày 10 tiếng, 12 tiếng, có những công nhân thậm chí làm đến 14 tiếng, 16 tiếng 1 ngày. Chị Huệ làm công nhân ở công ty Sprinta (Bình Dương) cho biết, mỗi ngày chị phải làm tăng ca đến 14 tiếng, như vậy mỗi tháng chị mới đủ dư 2.000.000 để phụ giúp cho gia đình, đó là đối với những người tiết kiệm. “Trước thì có 9 – 10 tiếng, nhưng giờ chỉ có 8 tiếng thôi, tùy theo từng người, nhưng mỗi tháng em có dư 2.000.000.” Có nhiều công ty ngoài các khoản trợ cấp và phụ cấp, họ còn hỗ trợ cho các công nhân thêm nhiều khoản khác nữa như hỗ trợ thêm tiền xăng xe cho các công nhân người địa phương mà không thể ở trọ, hỗ trợ tiền sinh đẻ cho các công nhân nữ… Chị Yến ở Nghệ An chia sẻ: “Xăng xe khu vực là 400.000, tăng ca 1 tiếng được 15.000, phụ nữ sinh vẫn có bảo hiểm, nhưng khi sinh sau đi làm 6 tháng họ mới nhận được bảo hiểm.” Thông tin từ Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) cho biết, trong 2 tháng đầu năm 2016, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 15.605 lao động, chưa kể đến số lao động đi làm ở các nước mà không qua dịch vụ. Việt Nam được là một nước có nguồn lao động trẻ, theo một báo cáo mỗi năm có khoảng 1,1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động, tuy nhiên vì ở trong nước không tìm được việc làm cũng như tiền lương ít ỏi nên nhiều công nhân Việt Nam phải tìm cách đi xuất khẩu lao động. Trong thời gian gần đây thị trường mà nhiều lao động Việt Nam tìm tới là Lào, Camphuchia và đặc biệt là Thái Lan.
  3. Giữ cương vị tổng thống Mỹ trong giai đoạn 1977-1981, sau khi rời khỏi Nhà Trắng, cựu tổng thống Jimmy Carter đã dành những năm tháng sau này làm việc, giảng dạy và viết về hòa bình cũng như phong trào hoạt động toàn cầu. Năm 2002, Carter được trao giải Nobel Hòa bình “vì hàng chục năm nỗ lực không mệt mỏi đi tìm giải pháp hòa bình cho các xung đột quốc tế, thúc đẩy tiến trình dân chủ và nhân quyền, cũng như thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.” Bài nói chuyện dưới đây được ông thực hiện tại TED Women năm 2015. Trong bài nói chuyện, ông khẳng định đối xử tàn tệ với phụ nữ là “hành vi vi phạm nhân quyền số 1 trên Trái đất” và nhấn mạnh đến việc cần thay đổi luật để đảm bảo công lý cho giới nữ. Là một người có may mắn có cơ hội được tiếp xúc với nhiều người từ khắp nơi trên thế giới, từ các vị nguyên thủ cho đến những người dân sống ở những vùng đất xa xôi nhất của châu Phi, tôi có thể nói rằng hành vi vi phạm quyền con người số 1 trên Trái đất này chính là hành vi đối xử tàn tệ với phụ nữ và trẻ em gái. Những câu chuyện kinh khủng từ các vùng đất xa xôi Tôi xin được kể ra ở đây những trường hợp đối xử tàn tệ với phụ nữ làm tôi lo ngại nhất. Ở một số nước trên thế giới hiện vẫn còn nghi thức cắt xẻo bộ phận sinh dục với các bé gái. Ngay từ khi còn bé, các bé gái đã bị cắt bỏ bộ phận sinh dục, và trong nhiều trường hợp, bộ phận sinh dục của các em còn bị khâu lại và chỉ được mở ra khi các em kết hôn. Mặc dù là hành vi đi ngược lại luật pháp, song nó không phải là chuyện hiếm gặp. Ở Ai Cập, có 91% nữ giới bị cắt xẻo bộ phận sinh dục. Ở một số nước khác, số trẻ em gái bị cắt xẻo kiểu này trước khi đến tuổi trưởng thành là 98%. Đây là hành vi xâm hại kinh khủng đối với tất cả những phụ nữ sống ở các nước này. Các trẻ em gái ở Ai Cập là một trong những nạn nhân thường xuyên của hủ tục kinh khủng này. Ảnh: CNN Một hình thức đối xử tàn tệ nghiêm trọng không kém khác là việc giết tế phụ nữ. Ở một số nơi, người con gái sẽ bị chính gia đình mình giết tế sau khi bị cưỡng bức, hoặc khi kết hôn mà không được sự đồng ý của người cha. Thậm chí có những trường hợp cực đoan khi người con gái bị gia đình giết tế vì mặc trang phục không phù hợp. Và chuyện giết tế này lại do chính người thân của cô gái thực hiện. Nói cách khác, người ta có thể giết con gái, chị gái hay em gái của mình khi cô gái được cho là đã bôi nhọ danh gia. Một phân tích được Liên Hợp Quốc thực hiện ở Ai Cập cách đây không lâu đã đưa ra con số 75% những vụ giết hại một cô gái là do người cha, người chú hoặc anh trai thực hiện, 25% là do những người cùng giới với cô xuống tay. Và những chuyện kinh khủng ngay trong lòng nước Mỹ Một vấn đề khác liên quan đến nữ giới mà hiện nay chúng ta đang phải đối mặt là tình trạng buôn người, biến phụ nữ thành món hàng nô lệ. Trong thế kỷ 19 và thế kỷ 18, có khoảng 12,5 triệu người châu Phi được đưa sang Tân Thế Giới làm nô lệ. Hiện nay, số người sống trong cảnh nô lệ là 30 triệu người. Theo một báo cáo hàng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ, mỗi năm có khoảng 800.000 bị bán làm nô lệ qua đường biên giới giữa các nước, 80% trong số đó là phụ nữ bị bán làm nô lệ tình dục. Ở Mỹ, ngay tại thời điểm này, có 60.000 sống trong cảnh cầm tù như nô lệ. Ở Altanta, Georiga có khoảng 200 đến 300 phụ nữ bị bán làm nô lệ mỗi tháng. Thành phố này có sân bay nhộn nhịp vào bậc nhất thế giới và có nhiều hành khách từ Nam Bán Cầu dừng chân tại đây. Nếu một nhà chứa muốn mua một cô gái da nâu hay da đen, họ chỉ cần bỏ ra 1.000 USD là xong. Phụ nữ da trắng thì giá cao hơn vài bậc. Với mỗi một nữ nô lệ như thế, chủ một nhà chứa bình thường ở Atlanta có thể kiếm được 35.000 USD. Ở thành phố này, hoạt động mua bán tình dục áp đảo hoạt động mua bán ma túy. Đây là một vấn đề hết sức nghiêm trọng, và vấn đề chính ở đây là hoạt động mại dâm bởi không một nhà chứa nào ở Mỹ lại qua được mắt của cảnh sát, quan chức địa phương, giám đốc sở cảnh sát hay thị trưởng. Thụy Điển có một biện pháp rất hay để giải quyết vấn nạn này. Khoảng 15-20 năm trước, Thụy Điển đã quyết định sửa luật. Phụ nữ không bị truy tố nếu họ là nô lệ tình dục, nhưng chủ nhà chứa, kẻ dẫn mối và khách hàng nam giới thì sẽ bị truy tố. Nhờ sự thay đổi này, tình trạng mại dâm ở Thụy Điển đã giảm hẳn. Nước Mỹ lại đi theo lối ngược lại hẳn. Ở đây, với mỗi một khách hàng nam giới bị bắt vì liên quan đến hoạt động mua bán dâm, thì có tới 25 phụ nữ phải vào tù vì liên quan đến hành vi tương tự. Ở Mỹ có hai thiết chế lớn nhận được nhiều sự ngưỡng phục: đó là hệ thống quân đội và hệ thống trường đại học. Nhưng đây cũng là những nơi việc đối xử tàn tệ với phụ nữ diễn ra ngang nhiên và không lo bị xử phạt. Theo báo cáo gần đây nhất mà tôi có được, có 26.000 vụ quấy rối tình dục đã diễn ra trong quân đội – xin nhắc lại 26.000. Chỉ có 3.000 vụ, không hơn 1% là bao nhiêu, được đưa ra truy tố. Lý do là các vị tướng lãnh chỉ huy là người nắm quyền quyết định có truy tố kẻ hiếp dâm hay không, và lẽ đương nhiên, việc cuối cùng họ muốn làm là để bất kỳ biết chuyện quấy rối tình dục đang diễn ra dưới trướng mình. Rõ ràng, luật cần phải thay đổi. Tình trạng ở các trường đại học Mỹ cũng tồi tệ không kém. Cứ bốn nữ sinh học đại học thì sẽ có một nữ sinh bị quấy rối tình dục trước khi tốt nghiệp. Tình trạng này bắt đầu nhận được sự chú ý của công luận khi 89 trường đại học ở Mỹ bị Bộ Giáo dục xử lý theo Điều IX vì lý do các vị lãnh đạo các trường đại học này không quan tâm đến giới nữ trong trường, không bảo vệ được họ trước các vụ quấy rối tình dục. Các sinh viên trường Dickinson College tập trung biểu tình chống lại hành vi xâm hại tình dục lan rộng ở các mô hình campus của các trường đại học. Ảnh: Rolling Stone Theo đánh giá từ phía Bộ Tư pháp, có hơn một nửa các vụ cưỡng bức ở trường đại học được thực hiện bởi những kẻ cưỡng bức hàng loạt. Nguyên nhân được cho là do khi cưỡng bức trong trường đại học, những kẻ này có thể ngang nhiên cưỡng bức mà không sợ phải chịu tội. Chúng không bị truy tố. Đây là những chuyện đang diễn ra ở xã hội của chúng ta ngày nay. Và đàn ông chẳng buồn để tâm… Có ba nguyên do cho việc tại sao phụ nữ và các bé gái lại bị đối xử tàn tệ. Trước hết đó là do sự diễn giải sai lệch các kinh điển tôn giáo như Kinh thánh, Kinh Cựu ước, Tân ước. Kinh Qu’ran, v.v… Những kinh sách này bị hiểu lầm bởi những người hiện đang nắm giữ những vị thế cao trong các nhà thờ, các giáo đường. Theo cách hiểu và cách diễn giải của họ, người nữ sinh ra đã ở vị thế thứ yếu so với người nam vì Thượng đế tạo ra họ như vậy. Đây là một vấn đề hết sức nghiêm trọng vì nó nghiễm nhiên đặt định người đàn ông ở vị trí quyền lực hơn. Một người chồng có xu hướng bạo hành, hay một người đàn ông có sẵn tư tưởng trọng nam khinh nữ có thể lợi dụng điểm này để bao biện cho hành vi đối xử tàn tệ của họ. Họ chỉ cần nói: Nếu trong mắt Chúa, phụ nữ không ngang hàng với chúng tôi, tại sao tôi phải đối xử với họ ngang hàng? Một nguyên nhân nghiêm trọng khác dẫn đến tình trạng đối xử tàn tệ với phụ nữ là thực tế bạo lực được sử dụng một cách ngang nhiên và tùy ý. Đây là thực trạng đang gia tăng ở mức báo động trên khắp thế giới. Ở Mỹ, chuyện người nghèo, chủ yếu là người da đen và những người thuộc nhóm thiểu số, bị đối xử tàn tệ bằng biện pháp bỏ tù tăng mạnh. Khi tôi còn là thống đốc bang Georgia, cứ 1.000 người Mỹ thì mới có 1 người phải ngồi tù. Hiện nay, con số này là 7,3 người trên 1000 người, tăng gấp bảy lần. Và nếu tính từ khi tôi rời Nhà Trắng, thì số phụ nữ da đen phải ngồi tù đã tăng 800%. Việc sử dụng bạo lực tùy ý và đối xử tàn tệ với người nghèo cũng như những người không có khả năng tự lực chính là một nguyên nhân khác làm gia tăng tình trạng đối xử tàn tệ với phụ nữ. Cả hai tình trạng này – tùy tiện sử dụng bạo lực và diễn giải sai kinh thánh – đều nổi lên rõ ràng ở Mỹ. Có lẽ đất nước này là đất nước ưa chiến tranh nhất Quả đất. Từ Thế Chiến II đến nay, chúng ta đã tham chiến với khoảng 25 nước. Lúc thì chúng ta cho quân đổ bộ đánh trên đất liền. Có lúc chúng ta lại bay lòng vòng thả bom xuống đầu mọi người. Thậm chí có bốn năm mà không một lúc nào là chúng ta không thả một quả bom, bắn một tên lửa, hay nã một viên đạn. Toàn bộ lối tùy tiện sử dụng bạo lực và diễn giải sai kinh thánh ấy là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc đối xử tàn tệ với phụ nữ và các bé gái. Cũng có một nguyên nhân cơ bản hơn mà tôi không cần đề cập đến, đó là cánh đàn ông chẳng hề bận tâm. Một người đàn ông bình thường miệng có thể nói: “Tôi phản đối đối xử bất công với phụ nữ”, song vẫn âm thầm chấp nhận những đặc quyền mà vị thế đàn ông mang lại. Anh ta phản đối việc phân biệt đối xử, nhưng vẫn chấp nhận, và thậm chí thích thú hưởng thụ những đặc quyền đó. Đó là nguyên do tại sao tình trạng đối xử tàn tệ với phụ nữ vẫn diễn ra rộng khắp. Đó cũng là những nguyên do vì sao tôi cho rằng đối xử tàn tệ với phụ nữ là hành vi vi phạm nhân quyền số 1 trên thế giới./. https://www.ted.com/talks/jimmy_carter_why_i_believe_the_mistreatment_of_women_is_the_number_one_human_rights_abuse?language=en Nguyễn Hoài An (lược dịch) (Luật Khoa)
  4. Người dân ngồi ngoài đường để đòi quyền sử dụng bãi biển neo đậu tàu đánh cá Một tập đoàn kinh doanh đa lĩnh vực trong đó có bất động sản ở Việt Nam mới ra tuyên bố khẳng định họ 'không liên quan' trong vụ việc tranh chấp giữa người dân ở tỉnh Thanh Hóa ở miền Trung Việt Nam và chính quyền tỉnh này. Hôm thứ Sáu, Tập đoàn FLC trong một thông cáo trên trang web chính thức của mình nói đã "tạo hàng ngàn công ăn việc làm cho người lao động" và "Dự án này hoàn toàn không liên quan gì đến những thông tin mà các báo mạng trên có đăng tải". Thông cáo của tập đoàn này cũng cho biết dự án bãi biển phía đông đường Hồ Xuân Hương là "chủ trương lớn của tỉnh Thanh Hóa". Thông cáo của tập đoàn hôm 04/3/2016 viết: "Tập đoàn FLC không liên quan gì đến các khiếu kiện khiếu nại của người dân cũng như việc người dân tập trung đông người tại UBND tỉnh Thanh Hóa. "Trách nhiệm này thuộc về chính quyền địa phương liên quan đến các chính sách đền bù, hỗ trợ người dân... Tập đoàn FLC nhận mặt bằng sạch từ chủ đầu tư và đang tích cực triển khai dự án." BBC đã và đang tìm cách liên hệ với FLC và đang đợi phản hồi từ Tập đoàn này về các thông tin mà doanh nghiệp này đưa ra. Vụ việc người dân Thanh Hóa 'đòi bãi biển' ở tỉnh này và biểu tình trong mấy ngày nay để đòi giải quyết nguyện vọng tiếp tục nằm trong sự chú ý của dư luận. Hôm Chủ nhật, Một người dân Thanh Hóa miêu tả với BBC Tiếng Việt về hiện trạng vụ việc. Người dân này nói "loạn hết cả xã Quảng Cư" và cho hay người biểu tình "nằm giữa đại lộ" trong vụ biểu tình đòi quyền sử dụng biển để neo đậu tàu đánh cá tại Thanh Hóa. Trước đó, từ ngày 29/2, hàng trăm người tập trung tại trụ sở Ủy ban Nhân dân tỉnh và ở khu vực xung quanh. Báo Vnpexpress mô tả "hàng trăm người tràn xuống đường, ngồi la liệt trên các con phố ở trung tâm Thành phố Thanh Hóa khiến giao thông tê liệt". Đám đông hỗn loạn Một số người biểu tình nấu mì tôm ăn tại nơi xuống đường Ngày 5/3, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thanh Hóa khởi tố vụ án gây rối trật tự công cộng vì người dân thị xã Sầm Sơn tràn xuống đường phản đối dự án quy hoạch không gian du lịch ven biển phía Đông đường Hồ Xuân Hương, Sầm Sơn. Trước đó, từ ngày 3/3, các đại lộ Lê Lợi, trước Ủy ban tỉnh Thanh Hóa đã có hàng trăm người nằm, ngồi, mang theo các biển hiệu "Trả lại biểu cho người dân Sầm Sơn", "Trả lại biển Sầm Sơn"... Đến chiều 5/3, hàng trăm người đến công an phường Trường Sơn, Sầm Sơn để đòi giải thích việc một phụ nữ bị đánh trọng thương tại nhà. Báo Vnexpress dẫn lời một người dân ở gần đó: “Tôi đang ngủ thì nghe tiếng súng nổ, bật dậy chạy sang thì thấy bà Thắng ngất xỉu, mặt mũi sưng vù, có cả máu chảy nên tức tốc gọi xe đưa đi cấp cứu”. Trên mạng xã hội Facebook, một clip quay cảnh người phụ nữ nằm trên băng ca được đưa đi trong đám đông hỗn loạn. Dường như người phụ nữ này đã bị thương tích chảy máu ở vùng đầu. Một người dân mô tả với BBC: "Dân cứ lên nằm giữa đại lộ, tắc hết đường xá. Họ mang con trẻ con nít nằm đêm nằm hôm ngoài đường." Trang tin VOV dẫn chính sách của Ủy ban tỉnh Thanh Hóa "hỗ trợ tháo dỡ, phá bỏ các loại tàu, bè nhỏ công suất dưới 20CV với mức 70 triệu đồng mỗi bè, 50 triệu đồng mỗi thuyền thúng. Ngư dân phải cam kết không đóng mới bè, mủng. Các hộ có tàu, thuyền dưới 20 CV tháo dỡ, phá bỏ đồng thời được hỗ trợ 30kg gạo/khẩu/tháng (trong 6 tháng) để ổn định đời sống." 'Đói không chịu được' Trả lời BBC khi cập nhật tình hình vụ việc, một người dân nói: “Họ chỉ đòi quyền lợi tí chỗ bờ biển quy hoạch lại cho người ta có một chỗ để mủng đi biển. Đưa người ta đi sông thì người ta không đi được, biển cách nhà người ta 7- 8 km người ta cũng không đi” Người dân này nói thêm: "Tôi làm nghề đánh cá theo mùa, tháng hai và tháng tư là đánh. Đánh gần bờ đi sáng tối về thôi." "Ngày trúng được vài triệu, không có thì được vài ba trăm hàng ngày. Tháng cũng đi được hơn hai chục ngày. Kiếm tiền học cho con cái, cháu chắt, mẹ già." "Không thể làm nghề mới được, nhận 50 triệu ăn vài tháng hết rồi." Người dân này cũng nói: “Làm khu du lịch thì rất đẹp, khu vui chơi giải trí, sân golf đồ. Đẹp thì đẹp thật đấy. Nhưng đói thì người dân không chịu được.” Dự án quy hoạch không gian du lịch ven biển phía Đông đường Hồ Xuân Hương do Tập đoàn FLC thầu, được tỉnh Thanh Hóa phê duyện tháng 10/2015. (BBC)
  5. USS Blue Ridge - soái hạm của Hạm Đội 7, đã dẫn hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis, hai khu trục hạm (USS Chung Hoon, USS Stockdale), hai tuần dương hạm (USS Antietam, USS Mobile Bay), vào Biển Đông. Hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis. (Hình: US Navy) Thiếu Tá Clay Doss, phát ngôn nhân của Hạm Đội 7 (hạm đội đặc trách Thái Bình Dương của hải quân Hoa Kỳ) cho biết, những chiến hạm vừa kể được điều động đến Biển Đông để thực hiện việc tuần tra thường kỳ tại vùng biển này. Thiếu Tá Doss nói thêm rằng, hải quân Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tuần tra thường xuyên ở Biển Đông. Phát ngôn viên của Hạm Đội 7 tiết lộ, tính riêng năm ngoái, các chiến hạm của Hạm Đội 7 đã có 700 ngày hoạt động tại Biển Đông. Sau đợt tuần tra thường kỳ vừa kể, USS Blue Ridge - soái hạm của Hạm Đội 7 sẽ thả neo tại Philippines. Tuần dương hạm USS Antietam thì quay trở về nơi trú đóng là một quân cảng của hải quân Hoa Kỳ ở Nhật. Chưa rõ hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis, hai khu trục hạm USS Chung Hoon, USS Stockdale và tuần dương hạm USS Mobile Bay có rời Biển Đông hay không. Người ta chỉ biết hai khu trục hạm và tuần dương hạm vừa kể đã vào Biển Đông từ đầu tháng trước, còn hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis thì vừa mới từ một quân cảng ở Washington State, Hoa Kỳ đến Biển Đông hồi đầu tháng này. Dường như Trung Quốc tham gia thúc đẩy Hoa Kỳ gia tăng việc điều động lực lượng đến Biển Đông. Các tuyên bố và những hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là nỗ lực quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc trong thời gian gần đây đã khiến cả chính giới Hoa Kỳ lẫn các đồng minh, đối tác của Hoa Kỳ, hối thúc chính phủ Hoa Kỳ phải tỏ ra cứng rắn hơn. Sau khi cộng đồng quốc tế được cảnh báo rằng, Trung Quốc đã bài bố hỏa tiễn phòng không, điều động chiến đấu cơ đến quần đảo Hoàng Sa và thiết lập xong hệ thống radar giám sát cả trời lẫn biển ở quần đảo Trường Sa, tuần trước, hải quân Hoa Kỳ loan báo vận tải hạm USS Ashland, vận chuyển các binh sĩ Trung Đoàn Viễn Chinh 31 của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vừa kết thúc một chuyến tuần tra tại Biển Đông. Trung Đoàn Viễn Chinh 31 của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đồn trú ở Okinawa (Nhật), có quân số khoảng 2,200 người, với phạm vi trách nhiệm chính là khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trung Đoàn Viễn Chinh 31 của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ được tổ chức như một đơn vị đặc nhiệm, có thể triển khai ở mọi nơi, kể cả đổ bộ từ trên không. Trung Đoàn Viễn Chinh 31 của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ được đặt dưới sự điều động của Hạm Đội 7. Đa số chỉ biết, hải quân Hoa Kỳ đã tổ chức hai cuộc tuần tra, một do USS Lassen thực hiện ở quần đảo Trường Sa hồi cuối tháng 10 năm ngoái và một do USS Curtis Wilbur thực hiện hồi cuối tháng 1 năm nay ở quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên theo thông tin mới nhất do hải quân Hoa Kỳ công bố cuối tuần trước thì ngoài hai khu trục hạm vừa kể, Hoa Kỳ còn điều động một số khu trục hạm, tuần dương hạm, vận tải hạm khác tham gia tuần tra ở Biển Đông như: USS Preble, USS Essex, USS Chancellorsville, USS Fort Worth. Trước khi USS Ashland tham gia tuần tra Biển Đông, tuần dương hạm USS McCampbell vừa kết thúc một cuộc tuần tra khác tại Biển Đông vào hôm 22 tháng 2. Tính ra, từ tháng 10 năm ngoái đến cuối tháng 2 vừa qua, hải quân Hoa Kỳ đã điều động tám chiến hạm tuần tra tại Biển Đông. Trong số này, có hai vận tải hạm - được thiết kế để vận chuyển và đổ bộ thủy quân lục chiến (USS Asland và USS Essex). Hiện chưa rõ các đợt tuần tra càng ngày càng dày với số lượng chiến hạm càng ngày càng lớn, có cả sự tham gia của những vận tại hạm vận chuyển thủy quân lục chiến của hải quân Hoa Kỳ tại Biển Đông, có liên quan thế nào đến tố cáo của ngư dân Philippines rằng các chiến hạm của Trung Quốc đã vây bãi Hải Sâm ở quần đảo Trường Sa suốt tháng trước. Cũng không rõ liệu hoạt động tuần tra vừa kể có tác động nào đến việc các chiến hạm của Trung Quốc rút khỏi bãi Hải Sâm hay không. Trong sự kiện bãi Hải Sâm, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc mới phân bua rằng, sở dĩ có nhiều tàu của Trung Quốc cùng đổ đến bãi đá Hải Sâm là vì cần giải cứu cho một tàu đánh cá của Trung Quốc bị mắc cạn tại đó từ cuối năm ngoái. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc khẳng định, các tàu của Trung Quốc không đuổi các tàu đánh cá của Philippines khỏi bãi Hải Sâm mà chỉ “thuyết phục những tàu đánh cá đó rút lui để bảo đảm an toàn lưu thông hàng hải” và “các tàu của Trung Quốc đã rút khỏi bãi đá Hải Sâm sau khi hoàn thành nhiệm vụ.” Đối chiếu thời gian của các sự kiện thì có một điểm đáng chú ý là sau khi soái hạm USS Blue Ridge đã dẫn một loạt chiến hạm của Hạm Đội 7 vào Biển Đông, ông Ashton Carter, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, công khai cảnh cáo Trung Quốc nên ngưng ngay những hành động hiếu chiến, bởi nỗ lực quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc sẽ dẫn đến những hậu quả cụ thể. (Người Việt)
  6. Ðất nước bị xâm lược, hàng trăm ngàn người dân Việt và chiến sĩ đã bị giặc ngoại xâm Tàu Cộng sát hại thảm khốc trong cuộc chiến tranh bảo vệ các tỉnh biên giới phía Bắc. Ngày 17 tháng 2 năm 2016 vừa qua là ngày có đông đảo người dân tại Hà Nội và Sài Gòn đến dâng hương tưởng niệm những đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ biên giới năm 1979 này. Thế nhưng, tình cảm tốt đẹp của những người dân này đã bị cấm cản và đàn áp thô bạo tại chân tượng đài Ðức Trần Hưng Ðạo, quận 1, nơi nhân dân Sài Gòn đến dâng hương tưởng niệm. Tại sao lại như thế và ai phải chịu trách nhiệm chính về chuyện này nếu không phải là người lãnh đạo cao nhất thành phố hiện nay: Bí Thư Thành Ủy Ðinh La Thăng? Người dân Sài Gòn tưởng niệm cuộc chiến bảo vệ biên giới Việt-Trung năm 1979 bị công an Sài Gòn phá bĩnh, ngăn cản dưới chân tượng Trần Hưng Ðạo. (Hình: Nguyễn Ðăng Hưng) Vậy mà thay vì phải giải thích trả lời ngay cho công luận về sai lầm nghiêm trọng này, Ðinh La Thăng đang lẩn tránh trách nhiệm và đang cố “lăng xăng” với những công việc rất bình thường khác. Lạ một điều là những vụ việc rất bình thường khác trong trách nhiệm của anh lại đang được báo chí tập trung tôn vinh như là những “đột phá lớn,” những đỉnh cao trí tuệ... Bài viết này ra đời như để thử tìm câu trả lời cho trách nhiệm của anh Thăng và phân tích thêm về những điều đang được xem là đột phá lớn của anh. Trước hết xin hãy cùng nhìn vào những chuyện mới nhất mà Ủy Viên Bộ Chính Trị (UVBCT), tân Bí Thư Thành Ủy (BTTU) Ðinh La Thăng vừa làm ngay khi vừa nhậm chức ở Sài Gòn và đang rất được các báo đài lề đảng tung hô, với nhiều ý kiến khen ngợi, tung lên mây và cho là đột phá (!?). Ðầu tiên đó là chuyện ông Thăng công bố công khai số “điện thoại nóng” với lời hứa sẽ lắng nghe mọi ý kiến phản ảnh, yêu cầu... từ mọi người dân. Mới nhìn vào thì dễ lầm tưởng đây chính là đột phá khi mà một ông vua trong 19 ông vua của BCT nay dám công khai số điện thoại nóng để tiếp dân, để trực tiếp lắng nghe ý dân. Nhưng khi nhìn vào thực tế, bản chất sự việc, thì sẽ thấy ngay đây là một việc mà ông Thăng không thể nào thực hiện hiệu quả, lâu dài vì công việc của một UVBCT, một BTTU, cho dù ở không nhất, cố gắng nhất, thực tâm nhất cũng sẽ không thể nào có được thời gian để lắng nghe, tiếp điện thoại người dân của một thành phố lớn đang có cả chục triệu người cư ngụ, sinh sống và làm việc. Hay lắm rồi thì Ðinh La Thăng cũng chỉ sẽ cố duy trì được một thời gian ngắn ban đầu, mỗi ngày cố bỏ ra chút thời gian tượng trưng nghe điện thoại của dân và chọn ra vài vụ việc ăn khách nhất để giải quyết và cho báo đài khuấy động lên để tuyên truyền, sau đó sẽ lặng lẽ để 99% các cuộc gọi đến sẽ phải chịu cảnh “ò í e số điện thoại mà quý khách đang liên lạc hiện tắt máy hay ngoài vùng phủ sóng...”! Thực tế thì mới qua vài ngày, số điện thoại riêng để “diễn” của ông Thăng đã quá tải. Báo lề đảng đưa tin dân (dân oan, dân khổ, dân bức xúc, dân phá?!) gọi đến suốt ngày và thậm chí có nhiều cuộc gọi còn được gọi đến vào lúc 0 giờ! Ông Thăng có lường trước được việc này hay không? Câu trả lời xin thưa là có và không. Nếu bảo là ông không lường trước được thì xem thường ông quá, không lẽ ông Thăng lại quá “lăng xăng và dại khờ” đến vậy; còn nếu có, ổng đã biết trước một việc mình đưa ra làm sẽ thất bại, không duy trì thực hiện được mà vẫn đưa ra nhằm mục đích mị dân, tuyên truyền thì anh chính là loại đột... phá gì đây!? Thôi thì hãy vẫn cứ nghĩ tốt về ông Thăng, hãy cứ cho là ông có thiện chí muốn lắng nghe dân, duy chỉ có cách nghe qua điện thoại do ông đưa ra là không tưởng, không thể thực hiện được thì xin được giới thiệu vài cách thông thường nhất mà các chính khách trên thế giới hàng ngày vẫn đang làm rất hiệu quả. Xin thưa đó là cách họ nắm bắt cuộc sống, lòng dân thông qua báo chí tự do và các trang báo mạng, qua các cuộc thăm dò các kênh thông tin đa chiều, qua các tổ chức xã hội dân sự và qua cả các hoạt động tự do biểu tình của người dân nhằm nói lên nguyện vọng, ủng hộ và phản đối những điều luật, sự kiện cụ thể nào đó, mà họ đang quan tâm và bức xúc nhất. Vậy liệu ông có thực lòng muốn và có đủ sức, đủ tầm và có dám thử sẽ làm những điều rất bình thường mà thực sự rất vì dân, rất lắng nghe dân này hay không? Viết đến đây xin lại nhắc đến một việc vừa xảy ra vốn rất được dân Việt Nam quan tâm và trực tiếp dính đến ông Thăng trong cương vị trách nhiệm BTTU. Ðó là chuyện những người dân tham gia sự kiện này ở Sài Gòn dưới quyền cai trị trực tiếp của ông đã bị đàn áp thô bạo. Trong khi cùng một sự việc dâng hương tưởng niệm ngày 17 tháng 2 vừa qua, tương tự như vậy nhưng ở Hà Nội lại diễn ra rất bình thường. Tại sao lại như vậy và tại sao lại có việc nhiều người dân tham dự tưởng niệm các chiến sĩ đồng bào đã bị giặc Tàu giết hại trong cuộc chiến tranh xâm lược mà chúng đã xua quân tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc ngày 17 tháng 2 lại bị an ninh cấm cản và khủng bố? Không thể không xét đến trách nhiệm ông Thăng vì đây là việc lớn, không thể nói rằng do ông không biết, thậm chí đang có dư luận cho rằng chính ông Thăng là người đã chỉ đạo, chịu trách nhiệm chính trong việc ra lệnh ngăn chặn, cấm đoán nhiều người, nhốt họ trong nhà, không cho họ đến dự, và lệnh cho an ninh đàn áp thẳng tay, xé bỏ, chà đạp lên các băng rôn, vòng hoa... của những người dân đến tham dự tưởng niệm ngày 17 tháng 2 ở chân tượng đài Trần Hưng Ðạo ở quận 1, Sài Gòn. Thực hư từ chuyện này và quan điểm của ông Thăng như thế nào về chuyện cụ thể này, và về các cuộc xâm lăng trong quá khứ xưa và nay của giặc Tàu, về tội ác của giặc Tàu trên Biển Ðông hiện nay là như thế nào, cũng là những chuyện mà người dân Sài Gòn đang rất nóng lòng muốn biết từ câu trả lời chính thức của ông. Trước hết cũng là cách để Ðinh La Thăng tự giới thiệu, và cũng để “giải oan” cho chính ông. Còn nếu ông lờ đi, không thèm trả lời dân Sài Gòn về vụ việc nóng sốt này thì người dân xem như cũng đã hiểu được Ðinh La Thăng chính là ai và ai là thủ phạm! Một việc ông Ðinh La Thăng vừa làm và cũng được lăng xê rất dữ trên báo đài mấy ngày qua, đó là chuyện ông đã chỉ đạo, tìm cách tác động giám đốc Vinamilk, giúp mua sữa bò cho dân Củ Chi. Nói nghe hơi kỳ chứ nếu quản lý xã hội mà chỉ đơn giản tác động, lệnh này lệnh kia thì ai làm lãnh đạo mà không được, cứ có chức quyền thì ra lệnh, buộc phải làm cái này cái kia thì quá dễ. Nhưng nếu như vậy, rồi xã hội cũng sẽ quay lại giống y như vào thời bao cấp, sẽ xóa luôn kinh tế thị trường cho dù đã có gắn thêm đuôi định hướng XHCN. Bởi vì trong thực tế ai cũng biết việc mua bán sữa bò giữa người dân Củ Chi và Vinamilk là mối quan hệ thuận mua vừa bán hai bên đều có lợi theo quy luật cung cầu của thị trường, và sẽ chiếu theo luật pháp mà xử nếu có các cam kết mua bán theo hợp đồng kinh tế hoặc các cam kết khác giữa hai bên. Không thể vì là bí thư thành ủy thì có thể ra lệnh, dùng biện pháp hành chánh, ép cho bên này hay bên kia phải mua hay phải bán sữa. Xin hãy cứ ví dụ như nếu Vinamilk vì bị ép phải mua sữa cho một số nông dân theo lệnh ai đó, hay vì để được lòng ông Thăng mà lỗ vốn, mà mất uy tín vì sữa không bảo đảm, hoặc có vấn đề... gì đó về hiệu quả kinh tế, về uy tín thương hiệu chẳng hạn, thì lúc đó liệu ông Thăng sẽ làm gì, có bồi thường lại được uy tín, tiền bạc... cho Vinamilk hay không? Chuyện của ông Thăng làm được và có tác dụng giúp dân Củ Chi nói riêng và ngành sữa nói chung nhiều hơn, lâu dài và đúng tầm của một BTTU hơn đó là ông phải chỉ đạo sao để ban hành được các chính sách tốt và quản lý xã hội hiệu quả... Ngăn chặn tận gốc được việc sữa thành phẩm và các nguồn nguyên liệu nhập lậu từ Trung Quốc và các nước khác vào thành phố; giảm được giá thành sản xuất bằng cách giảm thiểu tối đa mọi sự sách nhiễu, giảm các khoản bôi trơn chung chi từ lót đường cho cảnh sát giao thông, đến các khoản thu vô tội vạ ở địa phương, giảm thuế má... đồng thời tăng sản lượng và chất lượng sữa qua đầu tư, huấn nghệ, trang thiết bị, nguyên liệu, đầu vào đầu ra ổn định... Ðó mới chính là cái tâm và cái tầm của một lãnh đạo có trách nhiệm và thực tài lâu dài; còn việc thỉnh thoảng đến thăm, rồi tùy tiện gọi điện nơi này, nơi kia, lệnh mua này mua kia cho ai đó thì cho dù có được ai kia vị nể hay vì sợ mà mua thì cũng làm được chỉ một vài đợt, có được một vài bài báo rồi thôi chứ không thể xảy ra thường xuyên, không thể bao cấp bao tiêu do mệnh lệnh hành chánh mà duy trì được mãi. Và âu đó cũng chỉ là một trong các cái kiểu lăng xăng đụng đâu diễn đó, rất nặng phần trình diễn, mị dân và duy ý chí, phi thực tế. Tương tự như vậy là chuyện ông Thăng lệnh cho ngành công an trong vòng 3 tháng phải giảm các tệ nạn xã hội; nhưng lại cũng chỉ nghe báo đài đưa tin nói chung chung mà không thấy kèm theo các biện pháp chỉ đạo, các chỉ tiêu để thực hiện, so sánh và các biện pháp chế tài như giảm cụ thể những cái gì và nếu không giảm được thì ngành nào, cấp nào, và ai sẽ phải chịu trách nhiệm cụ thể như thế nào. Mà cũng xin được nhắc lại rằng, tệ nạn xã hội luôn là hậu quả, gắn liền với khả năng cai trị, đạo đức của đảng lãnh đạo; gắn liền với các chính sách sử dụng hiền tài, quản lý kinh tế chính trị xã hội... của các cấp chính quyền, năng lực giải quyết công ăn việc làm, các chuẩn mực giá trị, giáo dục, đạo đức... của toàn xã hội. Mà chính ông Ðinh La Thăng ở vị trí lãnh đạo cao nhất ở Sài Gòn, sẽ phải là người bị xử đầu tiên, chịu trách nhiệm chính. Vậy thì liệu ông có làm được điều này, phần nào tựa như ông Nguyễn Bá Thanh đã làm được ở Ðà Nẵng hay không, trong lúc tình hình kinh tế chung bết bát, rệu rã vì nợ công, nạn thất nghiệp ngày càng tăng, đĩ điếm xì ke ma túy trộm cướp... ngày càng phổ biến, lộng hành trên khắp Sài Gòn và cả nước. Trước đây ở Sài Gòn cũng từng có một lãnh đạo thành phố cũng xuất thân từ cán bộ đoàn như ông Thăng, nói rất hăng và cũng từng rất lăng xăng chống bia ôm đĩ điếm nổi tiếng là Nguyễn Văn Ðua, nhưng cuối cùng thì tệ nạn vẫn lềnh khênh và có... giảm; nhưng là giảm từ điểm này, quán này, quận này, chạy sang điểm khác, quán khác, quận khác. Cũng phải công nhận là sự nghiệp chính trị của Ðinh La Thăng khá hanh thông. Năm 1983 mới chỉ là kế toán viên, rồi bí thư đoàn của công ty Cung Ứng Vật Tư thuộc Tổng công ty Xây Dựng Thủy Ðiện Sông Ðà, vậy mà 2016 đã là ủy viên Bộ Chính Trị, phất lên nhanh như diều gặp gió. Nhưng mà nói cho ngay, bất kỳ ai dù có muốn nịnh hót anh tới cỡ nào thì cũng khó kể ra được tên công trình gì, thành quả gì từng gắn với anh thật sự lớn lao, có ý nghĩa và giá trị cho dân cho nước. Ngoài vài chuyện xây cầu đường bến cảng... có đúng tiến độ nhưng mau hư và giá thành lại cao hơn cả Mỹ, còn lại thì cũng toàn lăng xăng, vụn vặt như cấm nhân viên ngành giao thông chơi golf; đề xuất hạn chế xe cá nhân và tăng phí lưu thông... và gần đây nhất trong cương vị bộ trưởng cũng chỉ là cách chức, chuyển công tác giám đốc công ty cổ phần Vận Tải Ðường Sắt Hà Nội! Vậy thôi, nhưng mà thôi vì trong xứ mù thì thằng chột sẽ làm vua; trong dàn sâu chuột cán bộ Cộng Sản đầy tai tiếng vì tham nhũng bất tài hiện nay thì xem ra cho đến nay ông Thăng vẫn còn được xem là tương đối có làm và tham nhũng... chưa bị lộ, hoặc gặp may nhất vì chưa nằm trong tầm ngắm của Trần Ðại Quang, chưa bị “Chân Dung Quyền Lực” phanh phui nhắm tới! Cũng nhờ vậy ông bây giờ đang là UVBCT, bí thư thành ủy ở một thành phố lớn nhất nước, là một ông vua đúng nghĩa của Sài Gòn. Nhưng ông cần nhớ là Sài Gòn, nơi mà ngay sau năm 1975 đã có ngay câu “Nhất trụ, nhì tù, tam khu, tứ kết.” Trong bổ nhiệm, bố trí đảng viên, cán bộ đã được lưu truyền và áp dụng thì vùng đất này cũng không phải là nơi dễ dàng chịu sự khuất phục của một người chưa thấy tài đức gì nổi trội và từ xa mới đến. Sài Gòn cũng là nơi tập trung tinh hoa của cả miền Nam trong mọi lãnh vực; cả quan và dân Sài Gòn đều vậy, nên không dễ gì cho anh xài trò mị dân. Không thể chỉ có lăng xăng, lít xít mà có thể chinh phục được người dân Sài Gòn! Là một người gốc Bắc và được phe có lý luận áp đặt chỉ định vào chứ không phải được Ðảng Bộ thành phố bầu chọn lên tại chỗ, muốn chinh phục được lòng dân Sài Gòn, may ra chỉ có làm và làm, đừng diễn mà hãy làm, và nếu anh thực tâm muốn làm thì cũng chẳng khó lắm đâu vì ở đâu trên thành phố hôm nay mà chẳng tồn tại, đầy rẫy “tệ nạn”? Chỉ xin liệt kê ở đây vài điều rất dễ thấy, dễ làm, đó là phải sửa lại ngay lại diện mạo, gương mặt của Sài Gòn nay đã bị biến dạng từ ngay cái nhìn, buổi gặp gỡ đầu tiên của du khách khắp thế giới với cái tên Tân Sơn Nhất đầy tai tiếng ăn cắp và dơ dáy; hải quan thì làm tiền trắng trợn; công an cửa khẩu thì thiếu văn hóa, thiếu thân thiện và cửa quyền tùy tiện, hay vòi vĩnh... Mà đa số họ đều là đảng viên, con ông cháu cha, là con cháu các cụ cả và đa số cùng là gốc Bắc, đồng hương với ông đấy! Khó khăn hơn một chút trong trách nhiệm cụ thể của ông đó là phải làm sao ngay lập tức chặn đứng ngay được chuyện người Việt đang giết người Việt qua đường ăn uống hàng ngày, như cách tẩm ướp hóa chất độc hại vào trái cây, thực phẩm theo cách của người Trung Quốc và bằng hóa chất của người Trung Quốc đưa vào. Cao hơn nữa là giải quyết nạn ngập úng; ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông; mãi lộ... Rồi nạn cán bộ đảng viên cướp đất tham nhũng hối lộ, cửa quyền, hành dân... Cũng còn nhiều lắm các tệ nạn mà quan và dân Sài Gòn ai cũng thấy, ai cũng biết khỏi cần ông phải bày trò tiếp điện thoại dân thì mới biết. Nhưng chỉ với vài dòng liệt kê “tệ nạn của thành phố” sơ sơ như trên thôi, mà nếu làm được hết thì ông chơi được, và các ngôi vị cao nhất trong tứ trụ triều đình rồi đây nếu có sẽ lọt vào tay ông thì cũng xứng đáng. Còn không, nếu ông vẫn bóp nghẹt, đàn áp, khủng bố tiếng nói yêu nước chống giặc Tàu của người dân Sài Gòn, không cho dân Sài Gòn chí ít phải được như người dân Hà Nội vào ngày 17 tháng 2 vừa qua; và ông vẫn là người chỉ thích diễn trò lăng xăng lít xít, đụng đâu xâu đó, chỉ để nhằm đánh bóng bản thân, lừa mị dân ngu khu đen, thì thú thật, với dân Sài Gòn, dù ông có chức vụ là vua đi nữa, thì muôn đời sau cũng vẫn chỉ là La Thăng lăng xăng, cũng chỉ là một thứ diễn dỡ, diễn dơ, diễn dài, diễn dại... như bao nhiêu là sâu chuột khác! Thành Tôn (Người Việt)
  7. Người dân tụ tập trước cổng UBND tỉnh Thanh Hoá sáng 5/3. Ảnh VNN Sự đối đầu giữa ngư dân Thanh Hoá và UBND Tỉnh Thanh Hoá đã bước sang ngày thứ 8 và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Người dân lập luận một cách rất chính đáng rằng nghề truyền thống của họ đang bị tước đoạt khi bãi neo đậu thuyền bị di dời ngót chục km, kế sinh nhai hàng nghìn đời của họ bị tiêu diệt theo các chính sách bắt tay giữa quyền lực chính trị và các tập đoàn lợi ích tư nhân. Các quan chức Thanh Hoá thì lập luận một cách đầy đanh thép rằng việc quy hoạch bến thuyền cá là tất yếu vì không thể để chung bến cá với khu du lịch, và họ đã có kế hoạch bồi thường hỗ trợ nhiều chục triệu đồng cho việc phá bỏ các tàu cá, bè mảng và thuyền thúng công suất nhỏ, lên kế hoạch hỗ trợ dân đóng mới tàu công suất lớn. Bến mới nằm cách bến neo đậu hiện nay 10km. Trong lúc cuộc giao chiến giữa hai phe vẫn đang diễn ra, người ta khui ra hàng loạt sai phạm về đốn rừng phòng hộ của tập đoàn FLC. Nói cho cùng, với nền chính trị nặng tính tham nhũng của Việt Nam không có bất cứ chính sách đầu tư nào là sạch sẽ. Dân Thanh Hoá vốn không hiền và quan Thanh Hoá cũng cực kỳ đê tiện. Nhưng dù thế thì lũ này vẫn ngu không khác gì một lũ lợn. Bằng chứng là cuộc đối đầu đã diễn ra đến 8 ngày mà vẫn loay hoay không có nổi một giải pháp chung. Anh bận và chẳng muốn dính vào vụ này, tuy nhiên bạn nào quen biết với Bí thư tỉnh ủy tỉnh Thanh Hoá thì nhắn đám đó vào đọc mấy dòng này của anh: chuyện bồi thường phá dỡ thuyền cá, thúng mủng gì đó vẫn phải làm. Đã treo tiền trước mũi dân Thanh Hoá thì không rụt lại được đâu. Ngoài ra, thống kê các làng, xã có ngư dân hành nghề đánh cá, tổ chức riêng một tuyến xe buýt đặc biệt, chạy vào các khoảng giờ từ 4-5 h sáng, 3-4 h chiều để đưa đón các ngư dân ra bến neo đậu tàu thuyền mới (10km chạy giờ thoáng chưa đến 15 p đã tới nơi). Xây thêm cái nhà kho ký gửi ngư cụ ở ngay bến thuyền mới và một vài tiện ích cơ bản khác. Chợ thì không cần đến chính quyền, thương nhân sẽ tự đến và thị trường sẽ tự làm phần việc của nó. Một số ngư dân có thể được chuyển đổi nghề bằng cách duy trì một khu vực trong khu du lịch cung cấp dịch vụ bơi thuyền thúng, hoặc ngắm bờ biển từ bè mảng cho du khách, điều đó ít nhiều có tác dụng hỗ trợ an sinh và làm bớt tính đối đầu giữa các bên. Chi phí duy trì tuyến xe buýt lấy từ nguồn thu ngân sách tăng thêm từ dự án đang triển khai. Đơn giản có vậy mà nguyên một đám lợn ngần ấy ngày vẫn nghĩ chưa ra. Một lũ ăn hại. Lãng (FB Lãng)
  8. Quảng cáo rao bán cô dâu Việt trên mạng Taobao trong ngày Độc thân ở Trung Quốc (Ảnh chụp từ trang scmp). Tin liên hệ Việt Nam ‘tậu’ vũ khí gì để đương đầu với Trung Quốc? Máy bay chiến đấu, tên lửa, radar, tàu ngầm, ngư lôi là những thiết bị quân sự Hà Nội 'tậu' của nhiều nước, đưa Việt Nam nằm trong top các quốc gia mua vũ khí nhiều nhất thế giới Ông Đinh La Thăng giúp phục hồi ‘Hòn ngọc Viễn Đông’? Việt Nam nới lỏng quy định cấp visa cho người Trung Quốc Người mẫu gốc Việt bị bắt vì cáo buộc bắt cóc con gái Du khách Anh có thể tẩy chay Việt Nam vì thịt chó Muôn nẻo mưu sinh của người Việt ở New York 05.03.2016 Hơn 10 phụ nữ Việt lấy chồng Trung Quốc qua môi giới đã cùng “biến mất” khỏi làng Nam An ở tỉnh Phúc Kiến trong một ngày, khiến nhiều người cho rằng đây là một cuộc “bỏ chạy có phối hợp”. Theo báo chí Trung Quốc, sau khi biết được vụ việc, hai cô dâu Việt còn lại trong làng cũng “mất tích”, đưa tổng số phụ nữ trốn chạy khỏi làng Nam An là 17 người. Vụ việc xảy ra từ hồi giữa tháng trước nhưng chỉ được báo chí quốc tế đưa tin hôm qua. Một số phụ nữ Việt đã sống ở Nam An được khoảng 6 tháng, trong khi một số khác mới tới đó chỉ vài ngày. Một số cô dâu đã mang thai. Trước đó, những người đàn ông trong làng này đã phải trả tới 60 nghìn Nhân dân tệ (khoảng hơn 9 nghìn đôla) để cưới các phụ nữ Việt. Không có ai trong số đó đăng ký cưới hỏi chính thức. Tin cho hay, người dân trong làng giờ tin rằng đó là các vụ lừa đảo mà những kẻ môi giới dàn dựng để ăn tiền. ‘Khó lấy vợ’ Đàn ông ở Trung Quốc ngày càng khó kiếm vợ vì tình trạng mất cân bằng giới tính do chính sách một con của nước này cũng như do khoảng cách giàu nghèo, và các nông dân lại càng khó lấy vợ. Chính bởi lẽ đó, nhiều đàn ông Trung Quốc ở nông thôn đã chi tiền để lấy vợ từ các nước láng giềng như Việt Nam hoặc Lào. Số liệu của Bộ Công an Việt Nam cho biết đã có gần 6.000 phụ nữ Việt bị bán ra nước ngoài trong những năm gần đây, phần lớn là bán sang Trung Quốc. Mới đây, các cô dâu Việt Nam đã được rao bán với giá 9.998 tệ/người (khoảng 1.500 đôla) trên trang Taobao, một trang mạng mua bán trực tuyến được xem như ‘eBay’ của Trung Quốc, vào lễ hội mua sắm trong ngày Độc thân. Kèm với lời quảng cáo trên là bức ảnh nữ diễn viên Trung Quốc nổi tiếng Chương Tử Di và khoản ‘hàng dự trữ’ là 98 người sẵn sàng được gửi đi từ tỉnh Vân Nam đến bất cứ nơi đâu ở Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu tiên cô dâu Việt bị rao báo trên mạng. Trước đây đã từng xuất hiện các trang web rao bán cô dâu Việt ở Trung Quốc dẫn đến vụ phát hiện đường dây buôn người liên quan đến hàng trăm cô gái Việt, trong đó có 28 cô được giải cứu hồi cuối năm 2014. Theo People’s Daily, Daily Mail, SCMP, China Watch
  9. Các tế bào T bao quanh tế bào ung thư. (NIH) Tin liên hệ Có thể ngăn ngừa nguy cơ trẻ em mất thính giác WHO phát động chiến dịch nâng cao nhận thức tầm quan trọng việc phát hiện sớm để ngăn ngừa và giảm thiểu việc mất thính lực của trẻ em Xuất hiện ca nhiễm virus Zika đầu tiên ở Cuba Trung Quốc chuẩn bị ứng phó với virus Zika 05.03.2016 Các nhà khoa học đã tìm ra điều mà họ gọi là "gót chân Achilles" của bệnh ung thư, theo một nghiên cứu mới. Viết trong chuyên san Science, các nhà nghiên cứu từ đại học University College London cho biết họ đã hiểu biết cặn kẽ hơn sự phức tạp về mặt di truyền của những khối u ung thư, có thể dẫn đến những loại thuốc điều trị miễn dịch mới và mạnh. Các nhà nghiên cứu nói rằng khi một khối u phát triển, "những lỗi di truyền của nó được đánh dấu trên bề mặt tế bào ung thư" và rằng một số dấu chỉ đó, được gọi là kháng nguyên, "là những đột biến sớm nhất của căn bệnh và được hiển thị trên tất cả những tế bào trong khối u, thay vì một tập hợp nhỏ những tế bào khối u." Những đột biến thường gặp là chìa khóa dẫn tới một phương cách điều trị mới. Các nhà nghiên cứu mô tả những đột biến của bệnh ung thư giống như những cành của một cái cây, với những đột biến sớm nhất "được tìm thấy trong tất cả những tế bào, tạo thành thân của căn bệnh." Những đột biến sau này không được nhìn thấy ở tất cả những tế bào của bệnh ung thư, các nhà nghiên cứu cho biết. Những thay đổi đó cho phép bệnh ung thư phát triển khả năng miễn dịch đối với những loại thuốc, và tránh được những cuộc tấn công của những tế bào T của hệ miễn dịch trong cơ thể. "Hệ miễn dịch của cơ thể hoạt động như cảnh sát cố gắng trấn áp căn bệnh ung thư, là những tên tội phạm. Những khối u đa dạng về mặt di truyền giống như một băng nhóm những kẻ vô lại dính líu tới nhiều tội ác khác nhau – từ cướp giật cho tới buôn lậu," Sergio Quezada, đồng tác giả của nghiên cứu, nhà khoa học của tổ chức Nghiên cứu Ung thư UK và người đứng đầu phòng thí nghiệm Liệu pháp Miễn dịch Ung thư và Điều tiết Miễn dịch tại Viện Ung thư UCL, nói. "Và hệ miễn dịch vất vả kiểm soát bệnh ung thư cũng giống như sự khó khăn đối với cảnh sát khi có rất nhiều chuyện cùng diễn ra. "Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thay vì đuổi theo tội phạm một cách vô phương hướng ở những khu khác nhau, chúng tôi có thể cung cấp cho cảnh sát thông tin mà họ cần để tới chỗ của tay trùm ở gốc rễ của mọi tổ chức tội phạm, hoặc những điểm yếu trong khối u của bệnh nhân để quét sạch vấn đề mãi mãi." Các nhà nghiên cứu nói rằng bởi vì bây giờ họ có thể xác định được và nhắm mục tiêu vào những kháng nguyên khối u nằm trong mỗi tế bào ung thư, những liệu pháp miễn dịch có tính cá nhân hóa cao có thể được phát triển để tấn công căn bệnh ung thư. "Trong nhiều năm qua, chúng tôi đã nghiên cứu làm thế nào mà phản ứng miễn dịch đối với bệnh ung thư được điều tiết mà không hiểu rõ những tế bào miễn dịch nhận thấy cái gì trên những tế bào ung thư. Dựa trên những phát hiện mới này, chúng tôi sẽ có thể cho hệ miễn dịch biết làm thế nào để nhận ra một cách cụ thể và tấn công những khối u," ông Quezada nói.
  10. Ngành Mai, thông tín viên RFA 2016-03-05 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Nghệ sĩ Hữu Phước và Út Bạch Lan trong "Nửa Đời Hương Phấn". File photo Không giống những tiếng đờn từ trước đến giờ Khoảng giữa năm 1959 chương trình cổ nhạc Nam Phần của đài phát thanh Sài Gòn vào buổi trưa, đã cho phát thanh dĩa vọng cổ 6 câu “Nắm Xương Tàn” do nghệ sĩ Hữu Phước ca. Và cũng do thính giả yêu cầu nhiều nên cử cách một tuần thì đài cho phát trở lại. Lúc bấy giờ phần lớn thính giả đón nghe chương trình này đã lấy làm lạ, rằng nhạc sĩ nào đờn cho Hữu Phước ca mà nghe rất lạ tai, không giống như bao nhiêu tiếng đờn từ trước đến giờ. Sau nhiều ngày tìm hiểu thì giới mộ điệu đã biết rằng Hữu Phước ca dây Ngân Giang do nhạc sĩ Tư Còn đờn. Không như dây Rạch Giá xuất phát từ miền Tây, cũng như bản Dạ Cổ Hoài Lang của nhạc sư Sáu Lầu ra đời ở tỉnh Bạc Liêu, nói chung nhiều vấn đề liên quan đến cổ nhạc đã khởi nguồn từ Miền Tây Nam Việt. Thế nhưng, riêng dây Ngân Giang góp phần tô điểm nét độc đáo cho cổ nhạc thì lại xuất phát từ Biên Hòa, một tỉnh thuộc Miền Đông nổi tiếng với đặc sản bưởi ngọt Biên Hòa. Theo lời kể của nhạc sĩ Văn Còn quê quán ở Dĩ An, Thủ Dầu Một thì vào năm 1952 thời kỳ chiến tranh loạn lạc, ông và cả xóm cùng đi lánh nạn chiến tranh, mà vào thời đó thiên hạ gọi là đi “chạy giặc”. Từ Dĩ An lên Trảng Bom cư ngụ gần ga Bảo Chánh, Biên Hòa lánh nạn, ông không quên mang theo cây đàn lục huyền cầm, và nhờ đó mà sau này kho tang cổ nhạc mới có được dây Ngân Giang, mỗi lần nhạc sĩ dạo đờn là như oán như than nghe buồn não nuột. Số là trong một buổi tối nọ tại nhà gần ga xe lửa Bảo Chánh, Biên Hòa nhạc sĩ Văn Còn ngồi buồn ôm đàn so dây nắn phím, dây bị lạc, bỗng bất chợt nghe được tiếng đàn rất hay, ông vô tình khám phá ra tiếng đờn lạ, và từ đó bắt đầu hoàn chỉnh chữ đờn và đặt tên là “dây Bảo Chánh” dành riêng cho giọng nam ca bài vọng cổ. Dây đờn mới tìm ra này mỗi ngày được hoàn chỉnh hơn, ông đờn cho nhiều ca sĩ tài tử trình bày rất hay, rất mùi và bảy năm sau thì tiếng đờn do dây Bảo Chánh lần đầu tiên được vô dĩa hát: Năm 1959 nhạc sĩ Văn Còn đờn cho Hữu Phước ca bài vọng cổ “Nắm Xương Tàn” của soạn giả Quy Sắc, được thâu thanh vô dĩa hát Hồng Hoa, phát hành cùng khắp. Năm 1956, nhạc sĩ Văn Vỹ và nhạc sĩ Bảy Bá đã lên Dĩ An tìm gặp nhạc sĩ Văn Còn trao đổi, đề nghị đổi tên “Bảo Chánh” thành “Ngân Giang”. Vì ông Bảy Bá cho rằng lúc nghe đờn dây Bảo Chánh, ông có cảm giác như lâng lâng bay bổng, âm thanh hòa quyện nhau, bàng bạc như những đám mây, sáng lên tợ dãy Ngân Hà. Ông muốn gọi đó là “dây Ngân Giang”, thay cho tên “dây Bảo Chánh”, vốn chỉ là tên địa phương. Nhạc sĩ Văn Còn nhận thấy dây Bảo Chánh có những nét ngân vang buồn buồn lúc đờn, nên cũng thuận theo ý đó. Thế là “dây Ngân Giang” đã thành danh vĩnh viễn. Khi tuổi về chiều, nhạc sĩ Văn Còn lui về quê hương ở Dĩ An, Bình Dương mở lớp dạy đờn tại nhà ở gần ngã ba Cây Điệp, ông sống trong cảnh nghèo nàn túng thiếu chạy gạo từng bữa, lại thêm cơn bịnh suyễn hoành hành, ông qua đời vào năm 2002. Nhạc sĩ Văn Còn ra đi năm 76 tuổi đời mà thời gian ôm đàn của ông ngót hơn 50 năm, để lại cho nền cổ nhạc nước nhà dây Ngân Giang. Các thế hệ sau này khi thưởng thức có mấy người biết được xuất xứ, cũng như người nhạc sĩ nào đã tìm ra dây Ngân Giang vậy! Cũng cần nói thêm dây Ngân Giang chỉ có dây kép, không có dây đào, vì vậy mà người nữ phải ca dây lòn. Mời quí vị theo dõi tiếp trong phần âm thanh bài vọng cổ “Nắm Xương Tàn” của soạn giả Quy Sắc thu thanh dĩa hát năm 1959 do nghệ sĩ Hữu Phước ca. Vào thời này bài vọng cổ đủ 6 câu.
  11. Chợ cá sớm mai ở bãi biển Sầm Sơn “Đại gia, quan chức làm giàu trên xương máu chúng tôi”. Đó là lời ai oán thốt ra của một nông dân xã Phụng Công (Văn Giang) khi ứa nước mắt nhìn những xe ủi của DN Ecopark hất tung hoa màu, mồ mả nhà mình hôm xẩy ra vụ cưỡng chế. Thời gian qua, tập đoàn FLC giàu lên nhanh chóng nhờ kinh doanh bất động sản và tai họa đã giáng xuống những người sống về đất đai ở nhiều nơi và nay FLC lại “sờ gáy” dân đánh cá Sầm Sơn khi họ thực hiện dự án nghỉ dưỡng sinh thái Sầm Sơn.Và cũng đúng theo “quy luật”, tai họa đang giáng xuống những ngư dân nghèo tại đây. Ai đến những làng chài khu vực biển Sầm Sơn mới thấy cuộc sống bấp bênh của họ.Do quá nghèo, họ không thể có thuyền lớn đánh bắt xa nên chỉ chiều tối ra khơi kiếm con tôm, con mực…rạng sáng trở về bãi biển Sầm Sơn bán lại cho người buôn nhỏ, du khách kiếm cơm.Khi những người đàn ông đánh cá về nhà nghỉ lấy lại sức thì vợ, con đi bán cá, ra bãi biển nhặt vở ốc, bán kem, bán nước, ngô, khoai luộc, cho thuê ghế, lều…phục vụ khách du lịch, nghĩa là làm bất cứ việc gì để kiếm sống. Chẳng mấy nhà có của ăn, của để mà toàn “ăn bữa nay, lo bữa mai”. Những hôm biển động không đi biển được, khách du lịch tới ít là bị đói. Tỷ lệ trẻ em đi học với dân chài rất thấp. Thế mà nay cái bãi biển nơi sinh sống duy nhất, những xóm làng chài nghèo đang bị thu hồi để giao cho đại gia FLC giống như những bãi biển ở Đà Nẵng bị chiếm, người dân không ở khách sạn, không tiền thì đừng bén mảng. Không chỉ tàn bạo, việc đuổi nơi tập kết thuyền bè của ngư dân khỏi bãi biển gần khu du lịch theo tôi là một hành vi ngu xuẩn.Bởi vì, khi ngư dân hoạt động trong khu du lịch chính là một sản phẩm du lịch.Ai đã từng du lịch ở Sầm Sơn chắc không thể không tham gia vào những buổi trời hửng sáng, thủy triều xuống thấp, biển như mới tinh khôi, những đoàn thuyền của ngư dân lục tục trở về. Những chiếc thuyền chứa cá, tôm, cua, ghẹ được khách du lịch, người buôn xúm xít xem, mua. Có những hôm dậy sớm gặp ngư dân đang kéo lưới trên bãi biển mới thật thú vị. Khách du lịch cùng ngư dân kéo lưới thỏa sức trải nghiệm việc kéo lưới, bắt cá trên bãi biển như thế nào…Theo tôi, một trong những lý do khách du lịch đến Sầm Sơn đông hơn các nơi lân cận cũng nhờ một trong những sản phẩm độc đáo đó. Ở các thành phố cũng có những sản phẩm du lich như thế. Ai đi du lịch đến Hà Nội mà không đến khu phố cổ, Hoàn Kiếm? Nếu đến Hà Nội mà không đến đó thì không gọi là đã đến Hà Nội.Bởi vì, các khu vực này còn lưu trữ những ngôi nhà, phố cổ, đặc biệt là nơi đây thể hiện mọi sinh hoạt, tập quán, văn hóa, sản phẩm…của người Hà Nội, Việt Nam còn các khu phố, khu trung cư, biệt thự hiện đại ở Cầu Giấy, Thanh Xuân, Xuân La…mênh mông, đường thênh thang xe lao vun vút kia thì có khác gì đầy rẫy các khu phố trên thế giới? Khu du lịch Sầm Sơn thêm ấm cúng mang bản sắc, đặc điểm của đất nước, con người, dân chài Thanh Hóa là nhờ những hoạt động thường ngày của người dân, đó cũng chính là một sản phẩm du lịch chính của địa phương.Nay vì tiền của FLC nhà cầm quyền địa phương giải tán bến cá, đuổi người dân đi nơi khác ở thì Sầm Sơn chỉ chủ yếu dành cho người giàu có đến nghỉ ngơi, hưởng lạc còn nhiều dân nghèo thì hết kế sinh nhai và địa phương mất đi môi trường, sản phẩm du lịch dân dã, đại chúng. Những ngày qua hàng nghìn người dân Sầm Sơn bao vây trụ sở chính quyền đòi thu hẹp, hủy dự án tàn bạo và ngu xuẩn này là đúng. Nguyễn Đình Ấm (Nguyễn Đình Ấm Fb)
  12. “…Dân trí người dân và những người quan tâm đến đất nước ngày càng cao do mọi chiêu trò đánh lừa dư luận và lí luận chính trị của ban tuyên giáo đã cũ rích, đi xa với xã hội thực tế. Các nhà dân chủ cũng dần ý thức được cuộc cách mạng này là phải đấu tranh có tổ chức…” Đại hội Đảng Cộng Sản vừa khép lại với đầy đủ các gương mặt tứ trụ. Một nhiệm kỳ lãnh đạo cũ đã khép lại, nó không có gì mới mẻ về những thành tựu kinh tế và đường lối ngoại giao chính trị. Ngược lại, nó còn đẩy đất nước đi xuống và có nguy cơ tụt hậu một cách bi đát hơnso với các quốc gia trên thế giới và Đông Nam Á, đặc biệt là hai người bạn láng giềng Lào và Campuchia. Tôi không biết Đảng Cộng Sản Việt Nam và những người còn quan tâm đến vận đất nước nghĩ gì về các vấn đề chính trị ảnh hưởng đến tương lai của đất nước. Riêng Đảng Cộng Sản đang rất hăng say với một nhiệm kỳ lãnh đạo mới, với những gương mặt cũ ngồi những chiếc ghế mới. Đảng Cộng Sản thừa biết rằng họ không có đủ khả năng để tạo ra một cuộc cách mạng thay đổi đất nước toàn diện. Cho nên Đảng Cộng Sản phải cố gắng thay đổi bộ mặt thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để tiếp tục mị dân trên con đường thắng lợi của Đảng. Có lẽ những lãnh đạo cấp cao thừa biết họ đang đối mặt với bốn vấn đề chính trị, nó ảnh hưởng tới quyền lực của Đảng và khiến đất nước rơi vào một thảm cảnh bi đát. 1/ Vấn đề chính trị đầu tiên mà Đảng Cộng Sản phải đối mặt là tình hình phát triển kinh tế nước nhà. Trải qua hai nhiệm kỳ lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đường lối của Đảng, nền kinh tế nước nhà lâm vào một thảm cảnh tăm tối. Với một nền kinh tế "định hướng xã hội chủ nghĩa" là đầu tư vào các công ty quốc doanh, bất động sản và chứng khoán như Trung Quốc và quốc nạn tham nhũng. Thất bại nối tiếp thất bại và lập lại thất bại một cách thích thú do bản chất của chủ nghĩa quái thai với những con người tham lam và độc tài. Nợ công đã vượt mức báo động "110 tỉ USD" và con số đó không thể tin tưởng với một chính phủ thiếu minh bạch và giả dối. Nợ càng ngày càng gia tăng và khả năng trả nợ đang còn là "dấu chấm hỏi" lớn. Chính phủ đang cố gắng tìm mọi cách để vay thêm tiền và hậu quả của nó ắt sẽ khó lường, một thảm cảnh Hy Lạp đang cận kề. 2/ Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường cũng rơi vào một trong những vấn đề cấp bách của Đảng Cộng Sản và không thể không đem ra trước quốc hội trong phiên họp đầu tiên từ một chính quyền mới. Việt Nam đang đứng thứ 5 trongnhững quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu và tình trạng ô nhiễm ở mức báo động. Không khí ở các thành phố trung ương, thậm chí vùng nông thôn cũng không thể thở trực tiếp, nguồn nước và đất đang ô nhiễm nặng nề. Hậu quả ô nhiễm của các công ty đa quốc gia để lại vẫn còn là một ẩn số do một chính quyền tham nhũng và thiếu minh bạch. Mũi Cà Mau đã không còn do mực nước biển dâng cao và chắc chắn Việt Nam sẽ phải vẽ lại bản đồ đất nước. Đồng Bằng Sông Cửu Long trong tương lai phải chịu nhiễm mặn, đất đai không thể trồng lúa nước, hoa màu và nuôi các loài cá nước ngọt (da trơn). Một làn sóng di cư đổ về thành phố Hồ Chí Minh? Mọi đỗ vỡ của thành phố Hồ Chí Minh không thể khắc phục nay lại thêm những bế tắc trong tương lai. Và Đảng Cộng Sản không đủ khả năng trí tuệ để đưa ra những chính sách hợp lý bởi sự độc tài và một chính quyền tham nhũng. Tôi ngẫm nghĩ những người đã và đang bỏ đất nước ra đi đến các quốc gia dân chủ chắc họ cũng nghĩ đến vấn đề "tị nạn môi trường-thực phẩm" trước tiên hơn là nghĩ về tị nạn "Cộng Sản". 3/ Vấn đề chủ quyền quốc gia đang làm cho Đảng Cộng Sản đau đầu và cũng là vấn đề sôi nổi nhất ở mặt trận Châu Á-TBD. Đảng CSVN vẫn tiếp tục ngồi chung một con thuyền với người anh Trung Quốc (ý thức hệ) và trao hết quyền hạn cho Đảng CSTQ chèo chống. Nói đúng hơn là Việt Nam đang đóng vai trò đồng minh của Trung Quốc để thực hiện "Giấc mộng Trung Hoa", giấc mộng của người Cộng Sản. Tôi đã từng phân tích việc "Quân đội nhân dân Việt Nam hiện đại hóa" để chống lại hải quân Mỹ và Mỹ cũng xem Việt Nam là kẻ thù tiềm ẩn nếu xảy ra một cuộc xung đột ở Biển Đông. Những phân tích đó càng có căn cứ hơn khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp tổng thống Obama để "ủng hộ sự hiện diện của Hoa Kỳ", rồi cho đặc phái viên Hoàng Bình Quân sang gặp chủ tịch Tập Cận Bình "khóc tiếng tàu". Đảng CSVN vẫn nghĩ rằng cuộc chiến Trung-Mỹ không thể xảy ra vì nhiều lí do, nhưng hai lí do chính là "sự rằng buộc nền kinh tế Trung-Mỹ và "một thế chiến hạt nhân". Đảng CSVN chỉ muốn đu dây tạo ra diễn biến hòa bình để tiếp tục củng cố quyền lực cai trị đất nước và họ biết rằng chiến tranh Trung-Mỹ xảy ra là dấu chấm hết cho chủ nghĩa cộng sản. Mưu đồ độc chiếm, quân sự hóa ở Biển Đông của Trung Quốc ngày càng lộ rõ, khiến cho người Mỹ và người Nhật không thể đứng nhìn hay tiếp tục "chia sẻ lợi ích quốc gia". Trung Quốc đã thuận lợi thực hiện kế hoặch "bành trướng" trong hai nhiệm kỳ yếu kém của Obama (đối thoại ngoại giao), nhưng trong tương lai (2016-2020) thì hoàn toàn khác. Bởi có hai vấn đề lớn có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh Trung-Mỹ: Một là nếu Trung Quốc không dừng lại ở mức độ quân sự hóa chuỗi đảo thứ 1 (Hoàng Sa-Trường Sa) mà đánh chiếm bán đảo Đài Loan. Vấn đề Đài Loan giữa Mỹ và Trung Quốc có thể thỏa thuận để đi tìm đến giải pháp "chia sẻ lợi ích chung". Hai là Trung Quốc sẽ lấy đà bành trướng Hoàng Sa-Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) đưa hạm đội tàu ngầm hạt nhân tiến thẳng Thái Bình Dương đe dọa đến an ninh chuỗi đảo thứ 2 (Guam-Nam Nhật Bản). Và trong tương lai lực lượng tàu ngầm hạt nhân sẽ đe dọa đến lãnh thổ phía Tây Hoa Kỳ một cách dễ dàng. Trung Quốc sẽ tiến lên một tầm cao mới trong mọi cuộc đối thoại ngoại giao và dễ dàng đạt được mục đích. Đối với Trung Quốc không gì là không thể bởi mưu đồ bá chủ từ bao đời lãnh đạo Cộng Sản đã lộ quá rõ và tham vọng lịch sử vẫn còn hiện hữu. Cho nên người Mỹ-Nhật đang lôi kéo Philippines (ĐNA) cùng ngồi trên một con thuyền và bằng mọi giá ngăn chặn âm mưu của Trung Quốc. Nhật Bản đã có những hành động độc lập là quân sự hóa và đối thoại ngoại giao để tạo sức ảnh hưởng về kinh tế cả quân sự đến các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Xem rõ hơn qua bài "Siêu cường Nhật Bản và một nước nhỏ như Việt Nam đang đứng trước sự chọn lựa nào?". Người Mỹ họ biết rằng quốc gia cần một tổng thống mới cứng rắn hơn và không thể nào áp dụng "chủ nghĩa thực tiễn" trước vận mệnh quốc gia. Vấn đề đối thoại ngoại giao với các nước ĐNA-Đồng minh và dùng quyền lực mềm khiến nền kinh tế Trung Quốc suy sụp là vấn đềcấp bách trong việc kìm kẹp Trung Quốc trước mắt. Bên cạnh đó, quân đội Hoa Kỳ phải có những động thái răn đe mạnh mẽ và hiệu quả thực tế hơn. Mới đây Hoa Kỳ đã cho thử tên lửa đạn đạo và cố gắng chạy đua bom hạt nhân thế hệ mới, tuy đó là động thái nguy hiểm nhưng nó có hiệu quả làm xoa dịu đồng minh (người Mỹ không nhẹ bóng vía trước một Trung Quốc ngang ngược). Năm 2020 nhiều vũ khí tối tân sẽ được biên chế vào quân đội Hoa Kỳ, tất cả sẽ có mặt ở Châu Á-TBD. Năm 2020 cũng là năm mà cán cân giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ-Nhật thể hiện rõ. Trung Quốc sẽ không còn thuận lợi trong việc thực hiện mưu đồ mà thay vào đó là đầy sự bế tắc, đặc biệt là bế tắc chính trị (kinh tế-nội bộ CSTQ) và vấn đề môi sinh. Đảng CSVN cần nghĩ rằng Châu Á-Thái Bình Dương ngoài vấn đề Trung Quốc (ý thức hệ) còn có vấn đề của người Mỹ-Đồng minh để sớm chọn lựa một "Trục" đúng đắn và thông minh. Trung Quốc-Hoa Kỳ-Đồng minh không có nhiều thời gian và chắc chắn Việt Nam cũng không có nhiều thời gian để chọn lựa. 4/ Lực lượng đối lập phát triển mạnh mẽ. Ba vấn đề chính trị trên cũng đủ làm Đảng CSVN không còn thời gian và mọi khả năng giải quyết. Chính vì thế mà lực lượng đối lập sẽ phát triển mạnh mẽ, nhất là xã hội dân sự và các tổ chức chính trị đứng đắn. Dân trí người dân và những người quan tâm đến đất nước ngày càng cao do mọi chiêu trò đánh lừa dư luận và lí luận chính trị của ban tuyên giáo đã cũ rích, đi xa với xã hội thực tế. Các nhà dân chủ cũng dần ý thức được cuộc cách mạng này là phải đấu tranh có tổ chức và chỉ có các tổ chức chính trị đứng đắn mới đủ sức và bản lĩnh đối trọng với Đảng CSVN. Một lực lượng trí thức trẻ đang nhập cuộc vào cuộc cách mạng. Mọi đổ vỡ chính trị-xã hội do Đảng CSVN gây ra sẽ giúp các bạn trẻ quyết tâm và có bản lĩnh chính trị hơn. Vấn đề của các bạn trẻ chỉ còn là tham gia vào một tổ chức chính trị mà các bạn cảm thấy đứng đắn. Và ngược lại các tổ chức chính trị đứng đắn cần tìm kiếm thêm nhân lực. Bốn vấn đề trên đều được các chí hữu Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên quan tâm và tìm ra giải pháp. Tất cả vấn đề và giải pháp đều nằm trong dự án chính trị "Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai". Khai sáng kỷ nguyên thứ hai Nguyễn Hòa Bình (Thông Luận)
  13. Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2016-03-05 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Nghệ sĩ Nguyễn Công Vượng với nghệ danh Vượng Râu. Courtesy FB Nghệ sĩ Vượng Râu Trong vài tuần gần đây phong trào tự ra tranh cử Quốc hội đã dấy lên sự chú ý của cộng đồng vì các mặt tích cực lẫn tiêu cực của nó. Những người tự ứng cử khẳng định rằng họ sẽ bị cản trở trong tiến trình nộp đơn cũng như ba lần hiệp thương mà Mặt trận tổ quốc sẽ là đơn vị chủ động tuyển chọn qua danh nghĩa của cử tri. Các ứng viên đa số có kinh nghiệm chính trị qua thời gian tham gia các sinh hoạt đòi hỏi dân chủ nhân quyền và vì vậy mọi cản trở, làm khó của chính quyền địa phương không làm họ nản lòng. Tuy nhiên một hình thức khác nhằm tấn công cá nhân người tự ứng cử bằng các bài báo trên hệ thống truyền thông chính thống đã dấy lên sự nóng giận trong quần chúng và dĩ nhiên đối với nạn nhân của nó. Nghệ sĩ Nguyễn Công Vượng với nghệ danh Vượng Râu là một nạn nhân trong đợt tấn công này khi tờ Pretro Times đăng bài viết dài lăng mạ, vu khống anh thậm tệ khi Vượng Râu chính thức cho biết sẽ tự ứng cử vào Quốc hội khóa này. “Quốc hội không phải là phường chèo” Chúng tôi tìm hiểu qua chính nghệ sĩ Vượng Râu về chi tiết dẫn đến bài báo có tên: “Quốc hội không phải là phường chèo” đăng trên Petro Time để rộng đường dư luận. Mặc Lâm: Xin cám ơn nghệ sĩ Vượng Râu đã dành thời gian rất eo hẹp của anh để chúng tôi có cuộc phỏng vần này. Chúng tôi được biết anh là một nghệ sĩ hề chèo rất nổi tiếng và loại hình mà anh đang theo phục vụ khán thính giả có thể nói là hiếm người theo đuổi và thành công. Xin anh cho biết vài nét về các sinh hoạt sân khấu của anh cho khán thính giả hải ngoại cũng như trong nước biết thêm đôi chút về cái tên Vượng Râu… Nghệ sĩ Vượng Râu: Năm nay là năm thứ 17 mà Vượng Râu đứng trên sân khấu biểu diễn mà chỉ biều diễn hài kịch mà thôi, từ lúc chưa có tên tuổi đến nay đã 17 năm. Vượng Râu có đi học trường Sân khấu Điện Ảnh với bằng chuyên nghiệp đầu tiên là bằng tiếng hát dân tộc và diễn viên Hề chèo. Vượng Râu học đúng nghề Hề chèo và bằng thứ hai mà Vượng Râu học là bằng đạo diễn. Tôi nghĩ cái bằng nó không quan trọng, nó chỉ là niềm tự hào của mình mà thôi. Có thể người này có bằng ngoại thương người kia có bằng ngoại giao còn tôi thì bằng sân khấu điện ảnh…nhưng không quan trọng ở điều đó mà tùy vào mỗi chúng ta sống như thế nào. Về sự nghiệp thì tôi cũng có một số tác phẩm được bà con kiều bào hải ngoại cũng như Việt Nam đón nhận trong những dịp tết đến xuân về từ mười mấy năm nay. Chương trình gần nhất mà Vượng Râu có làm đó là chương trình GALA vào đêm 30 tết tại Cung văn hóa thiếu nhi Việt Xô đã được đánh giá rất cao về mảng nghệ thuật cũng như chất lượng cùng với đội ngũ nghệ sĩ đông đảo đã làm bằng cái tâm của mình dành cho quý vị khán giả. Còn những tác phẩm được cho là thành công thì đang nằm ở phía trước nhưng nếu khán giả và người hâm mộ yêu mến thì Vượng Râu còn cống hiến thêm 5-10 năm nữa bằng những tác phẩm tốt nhất chứ không dừng lại vì đã thỏa mãn đối với nghề nghiệp của mình. Vượng Râu chỉ biết hàng ngày chăm chỉ, chịu khó mang lời ca tiếng hát đến cho tất cả khán giả từ thành thị đến nông thôn, từ miền cao đến vùng xuôi, đó là điều mà Vượng Râu luôn hướng tới. Mặc Lâm: Vâng theo dõi anh trong thời gian vừa qua chúng tôi rất ngạc nhiên vì bên cạnh sinh hoạt nghệ thuật tại các tụ điểm cũng như chương trình riêng do anh dàn dựng thì người Hà Nội lại thấy một sinh hoạt khác của Vượng Râu, đó là sinh hoạt chính trị qua các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, những status trên Facebook của anh về dư luận viên, những nhận xét về tự do dân chủ… Xin anh cho biết với những hoạt động mang màu sắc chính trị như thế có làm cho việc phục vụ khán giả của anh bị ảnh hưởng hay không, chẳng hạn như làm khó không cấp giấy phép biểu diễn chẳng hạn? Nghệ sĩ Vượng Râu: Thật lòng mà nói một cách công tâm, công bằng thì từ mười mấy năm nay tất cả tác phẩm của Vượng Râu đều được nhà nước cấp phép và những năm gần đây còn được khen ngợi bằng những lời trực tiếp. Về khó khăn thì thực tế mà nói chưa một tác phẩm nào trong suốt quá trình sản xuất, hài hay ca nhạc nghệ thuật đều có giấy phép hết chưa có một chương trình nào không có giấy phép. Những chương trình đó đều được khen ngợi bằng tâm huyết của mình vì nghệ thuật chứ không mang tính chất lợi dụng việc nọ mà làm việc kia thành ra phải nói một câu rằng Vượng Râu là một nghệ sĩ rất thuận lợi trong con đường làm nghệ thuật của mình hiện nay tại Việt Nam. Mặc Lâm: Chúng tôi cũng được biết anh là người nghệ sĩ trình diễn gần như duy nhất tự ra ứng cử trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa này. Xin anh chia sẻ lý do gì khiến anh mạnh dạn ra tự ứng cử như vậy trong khi các bạn đồng nghề chưa một ai có ý tưởng được xem là đột phá này? Nghệ sĩ Vượng Râu: Tôi nghĩ rằng mình còn cần sự bức phá, khêu gợi quyền của người dân. Chúng ta hay nhắc đến trách nhiệm, chúng ta hay nói đến nghĩa vụ nhưng ở Việt Nam người ta thường làm một nửa thôi tức là trong đó có trách nhiệm thì mình được quyền bầu cử và mình cũng được quyền tự ứng cử. Tại sao lâu nay chúng ta lờ chuyện đó đi hoặc là chúng ta né tránh? Tại sao phải né tránh trong khi luật pháp cho phép? Luật pháp đã cho phép bất cứ công dân nào đủ tuổi và đủ trình độ có thể tự ra ứng cử. Ngay ông Tổng bí thư cũng nói đang là thời điểm khuyến khích dân chủ, hết sức dân chủ. Khuyến khích dân chủ thì tôi thấy mình xứng đáng thì ra ứng cử. Đây hoàn toàn là một việc làm có thể nói là hết sức bình thường đối với suy nghĩ của tôi. Bài báo có tên: “Quốc hội không phải là phường chèo” đăng trên Petro Time hôm 2/3/2016. Screen capture. Mặc Lâm: Vâng đối với người nghệ sĩ như anh hay bất cứ người dân nào khác sẽ cảm thấy bình thường nhưng đối với một vài cơ quan truyền thông của nhà nước thì lại không nghĩ như thế. Cụ thể là tờ báo Petro Times vừa đăng một bài có cái tựa rất sốc đối với nghể nghiệp của anh: “Quốc hội không phải là phường chèo!” Trong bài viết này tuy tấn công rất nhiều ứng viên độc lập nhưng riêng với cá nhân Vượng Râu là nặng nề và mạnh bạo nhất. Anh phản ứng ra sao trước việc làm này của báo Petro Times? Nghệ sĩ Vượng Râu: Thực ra đối với Vượng Râu thì tôi có lướt qua thôi chứ không đọc kỹ nhưng mọi người lại thắc mắc rằng tại sao Vượng Râu lại đủ bản lĩnh để thong dong đúng như bây giờ đang trả lời báo chí? Thong dong tự tại vì tôi đang ở cửa trên! Tôi khẳng định là tôi đang ở cửa trên đối với những bài viết đó. Những chuyện đấu tố như vậy không phải chỉ xảy ra bây giờ mà nó đã xảy ra từ lâu rồi. Tất cả những ứng cử viên tự do tuy ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay nhưng bất cứ ai từ Giáo sư, Tiến sĩ đều bị quy chụp vào một việc gì đó. Bài báo ấy cũng chỉ là một số kênh báo cụ thể thôi, như bên công an chỗ Nguyễn Như Phong chằng hạn. Thế nhưng nhà báo (RFA) cũng như công luận đều biết rằng khi viết và hành văn theo kiểu đó, thiếu văn hóa và dung tục như thế thì sẽ xảy ra trường hợp phản ứng ngược. Đặc biệt đối với Vượng Râu phản ứng ngược có nghĩa là gì? Những người quá biết Vượng Râu là người thế nào cho nên khi viết vu khống, dựng chuyện, bôi nhọ thanh danh Vượng Râu như thế thì sẽ có hậu quả là không giảm đi cái sức mạnh hay là cái ảnh hưởng của Vượng Râu mà nó còn làm tôn lên. Tôn lên vì người đọc cảm nhận bài báo thành ra tôi phải cảm ơn bài báo. Tuy nhiên tôi đang trong quá trình cùng với luật sư sẽ yêu cầu đối với Tổng biên tập Nguyễn Như Phong, ông này nhiều “phốt” lắm rồi, tôi yêu cầu ông Phong phải đăng báo xin lỗi, rút lại bài báo và đăng lời xin lỗi tôi trên báo đó là điều thứ nhất. Thứ hai nếu không làm theo yêu cầu của tôi tôi sẽ kiện ra tòa. Thứ nhất, việc lớn nhất tôi kiện đầu tiên đó là tội vu khống. Tôi không thuộc bất cứ một tổ chức nào, đấy là việc thứ nhất, việc thứ hai đó là tờ báo lợi dụng tự do dân chủ vi phạm vào điều luật bầu cử quôc hội. Còn việc bôi nhọ hay viết bài rẻ tiển nói xấu thì tôi không chấp bởi vì tôi biết những bài báo đó họ phải lấy tên Đại Bàng thì mọi người đã biết tư cách của nó rồi, nó chỉ giống như dư luận viên thế thôi. Có ai dám để tên thật hay cái ảnh Avatar thật cùng địa chỉ đâu? Đó là điều mà chúng ta nhìn thấy. Bây giờ là thế giới phẳng nên người ta biết rất nhanh trong bất cứ trường hợp, hiện tượng nào. Từ nước ngoài đến trong nước, từ nông thôn đến thành thị chỉ ba giây thôi thì người ta sẽ kiểm tra được rằng anh là người như thế nào. Không thể nào ù chạy được, không thể nào dìm như thời trước. Thời cổ nó phải khác thời hiện đại. Người ta có câu “khôn văn tế, dại văn bia”. Nguyễn Như Phong là một người đã đầu bạc rồi nhưng lại mắc vào trường hợp đó có thể là ông vờ câm điếc nhưng ông đã bị rất nhiều phốt về báo chí rồi nhưng cứ cố tình làm những việc trái với luân thường đạo lý và đạo đức của người Việt Nam. Cái việc này tôi không xem nó là to tát vì tôi thong dong bình tĩnh lắm mà tôi nghĩ cái câu chuyện này tuy nhẹ nhàng nhưng là một cú ngã ngựa của báo Petro Times và Nguyễn Như Phong. Mặc Lâm: Xin cám ơn nghệ sĩ Vượng Râu đ ã chia sẻ với chúng tôi câu chuyện riêng của anh. Kính thưa quý vị, trước khi bài viết này được đăng, báo Tuổi Trẻ dẫn lời của Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam Nguyễn Văn Pha, người phụ trách bầu cử Quốc hội sắp tới cho biết các cơ quan có trách nhiệm trong công tác bầu cử không được phân biệt đối xử, cố tình gây trở ngại cho những người tự ứng cử. Ông Pha còn khẳng định cản trở người tự ứng cử là phạm luật. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi việc nghệ sĩ Vượng Râu yêu cầu có được báo Petro Times thỏa mãn như thế nào và nhất là liệu hành vi vu khống, hạ nhục người tự ứng cử của người làm truyền thông có được Mặt trận tổ quốc Việt Nam xử lý như lời ông Nguyễn Văn Pha tuyên bố hay không.
  14. Tin phân tích của RFI ngày 27/2/2016, “Trong chuyến công du Hoa Kỳ hồi tháng Chín 2015, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã cam kết không quân sự hóa vùng quần đảo Trường Sa, nơi đang có tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei. Tuy nhiên, theo các quan chức Mỹ, từ đó đến nay, Trung Quốc thể hiện rõ ý đồ quân sự khi xây dựng, cải tạo các phi đạo và đặt dàn radar trên một số đảo trong khu vực. Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi Bắc Kinh cho triển khai tên lửa và chiến đấu cơ trên đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa, nơi có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Việt Nam, nhưng Bắc Kinh đã kiểm soát toàn bộ quần đảo này từ 40 năm nay, sau khi đánh chiếm từ tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974.” Thế là Tổng thống Mỹ Obama vì nghe và tin Anh Ba Tàu Cộng Tập cận Bình, Chủ Tịch Trung Cộng mà chiến lược chuyển trục quân sự tái cân bằng của Mỹ đối với TC ở Á châu Thái bình dương bị yếu nếu không muốn nói là thất bại. Thực chất là Mỹ không ngăn chận được sự chiếm lĩnh biển đảo của TC ở Biển Đông. Trái lại TC đã chiếm cứ, quân sự hoá ngày càng nhiều biển, đảo càng vững trong vùng. TT Obama chuyển trục quân sự về Á châu Thái binh dương để gọi là cân bằng cả năm năm nay rồi. Nhưng theo tiêu chí đánh giá tình hình an ninh của Mỹ như trong Chiến Tranh VN, thì TC đã chiếm lĩnh và bình định được nhiều vùng an ninh (secure area) trên biển đảo ở Biển Đông. Còn Mỹ chỉ như lực lượng chánh qui của VN Cộng hoà và Mỹ như trong thời Chiến tranh VN lâu lâu mới hành quân vào vùng Việt Cộng kiểm soát. Như bây giờ lâu lâu Mỹ mới đi vào gọi là tuần tra bên trong 12 hải lý vùng biển đảo do TC chiếm cứ, bồi lắp và quân sự hoá vậy. TT Obama và Mỹ cứ yêu cầu ngưng quân sự hoá, Tập cận Bình cứ hứa nhăn, hứa cuội, cứ tiếp tục bồi lắp, cứ quân sự hoá. Điều đó cho thấy chiến lược chuyển trục quân sự của TT Obama về Á châu Thái bình dương cả 5 năm trời mà không thành công về phương diện địa lý chiến lược, chánh trị lẫn quân sự. TC đã chiếm cứ, kiểm soát, thường trực, vững chắc như lãnh thổ và lãnh hải của những đảo thiên nhiên hay nhân tạo mà TC đã chiếm. Ô. Carlyle Thayer thuộc Học viện Quốc phòng của Australia ở Canberra cho biết trong 2 năm trở lại đây, Trung Quốc đã bồi đắp ít nhất 1.170 hecta đất ở Biển Đông, xây dựng trên các bãi san hô, bãi cạn và đảo nhỏ. TC càng ngày chiếm càng nhiều thêm theo vết dầu loan. TC củng cố càng ngày càng vững sự chiếm đóng bằng việc lập thành xã huyện, thành phố, xây cất đồn bót, phi trường cho chiến đấu cơ hạng nặng, và cho trực thăng, căn cứ quân sự cho hải quân, không quân, cảnh sát và hải giám. Thậm chí TC còn lập dàn hoả tiễn tầm sát hại cả 200 km, và dàn ra đa tần số cao kiểm soát hầu hết vùng biển Á châu Thái bình dương. Những đảo của đồng minh và đối tác của Mỹ như Nhựt luôn bị TC khuấy rối ở Senkaku, của Phi bị TC chiếm 1 phần bãi cạn Scarborough, và VNCS thì bị TC chiếm khoảng 80% biển và gần hết hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa. Thiên hạ chỉ thấy Mỹ tuần tra trong vùng đảo nhân tạo mà TC đã quân sự hoá. Vào trong vùng 12 hải lý thì Mỹ phân bua đó là “đi qua vô hại” mà Luật Quốc tế về biển cho phép. Mỹ cũng tỏ ra không thiên vị, tuyên bố Mỹ không đứng về phía bên nào trong các cuộc tranh chấp biển đảo của các nước. Tuyên bố như thế các nước bị TC xâm lấn và TC nước xâm lấn biển đảo của các nước láng giềng coi tuyên bố của Mỹ như thị thiềng cho TC xâm lấn biển đảo các nước nhỏ vì TC biết chắc Mỹ không can thiệp giúp đồng minh hay đối tác của Mỹ. Cùng trong chiều hướng tỏ ra vô tư trong các cuộc tranh chấp, Mỹ cũng lên tiếng khuyến cáo các nước như Việt Nam, Phi luật tân, Đài Loan, Mã Lai và Brunei ngưng quân sự hoá, giải quyết hoà bình theo luật biển. Và khi tuần tra bên trong hay bên ngoài thì hầu hết hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa, Mỹ luôn nói là để thực hiện quyền tự do hàng hải và hàng không là quyền lợi cốt lõi của Mỹ, tức quyền lợi quốc gia của Hoa kỳ. Mà Mỹ không hề nói đến chủ quyền biển đảo của các nước nhỏ bị TC xâm chiếm. Nên khi Mỹ kêu gọi các nước cùng tham gia tuần tra, chỉ có Úc là đồng minh Tây Phương của Mỹ ở Á châu, Nhựt đồng minh và Phi đồng minh đáp ứng bằng lời nói thôi, chớ chưa hành động. Còn Việt Nam, Đài Loan, Mã Lai và Brunei là những nước bị TC xâm lấn im lặng vì việc tuần tra chung với Mỹ hại nhiều hơn lợi. Sẽ bị TC trả thù mà Mỹ cũng không giúp gì cho việc lấy lại biển đảo. Chính đô đốc Harry Harris Tư lịnh Lực lượng Mỹ ở Thái bình dương cũng nhận định “Tôi tin rằng Trung Quốc tìm kiếm quyền bá chủ trong khu vực Đông Á (và Đông Nam Á).” Và Ông nhận thấy hải quân Mỹ trong tương lai «sẽ tiến hành nhiều cuộc tuần tra hơn nữa, với mức độ phức tạp cao hơn nữa».. có thể xem xét việc đưa thêm một tàu ngầm tấn công đến châu Á, chúng ta có thể triển khai thêm một số tàu khu trục… Có rất nhiều điều chúng ta có thể làm…». Và Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội của hải quân Mỹ, Phó Đô Đốc Joseph Aucoin ngày 22 tháng 2 năm 2016 đến Sydney kêu gọi các nước đưa tàu chiến vào tuần tra để chứng tỏ quyết tâm bảo vệ tự do hàng hải trong vùng 12 hải lý quanh những đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trên biển Đông. Xin phép kết luận bài viết này với nhận định của Ông William Choong, một học giả kỳ cựu ở Singapore thuộc chương trình Đối thoại Shangri-La về An ninh châu Á-Thái Bình Dương. Ông nhân xét Chính sách xoay trục sang châu Á của TT Obama không chặn được bước TQ. Ông viết “Là người ngồi ở vùng châu Á-Thái Bình Dương và quan sát sự hiện diện của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, chúng tôi chỉ mới thấy vài ánh sáng le lói về sự tái cân bằng”. Trong nhiều thập niên, Hải quân Hoa Kỳ đã bảo vệ những tuyến hàng hải trọng yếu ở Thái Bình Dương. Hải quân Hoa Kỳ vẫn là lực lượng mạnh nhất trên đại dương, nhưng Trung Quốc đã có động thái khẳng định thêm chủ quyền và bành trướng sự hiện diện ở Biển Đông. Năm năm sau khi Tổng thống Mỹ Barack Obama cam kết tái cân bằng chiến lược sang châu Á, chuyển các nguồn lực ngoại giao và quân sự tới nơi được coi là động cơ kinh tế của thế giới, giới phê bình nói động thái này đã được quảng bá quá mức và cho đến nay vẫn chưa đem lại được kết quả. Vào một thời điểm mà các hành động quyết liệt của Bắc Kinh nhắm khẳng định chủ quyền ở Biển Đông thu hút tin tức báo chí và những phản ứng lo lắng của các nước trong khu vực, một số người nói Trung Quốc dường như đã vượt trội các đối thủ trong cuộc đua đòi chủ quyền ở vùng biển rộng lớn có tính chiến lược.”./.(VA) Vi Anh (Việt Báo)
  15. Chủ tịch Tập Cận Bình và thủ tướng Lý Khắc Cường tại phiên khai mạc Quốc Hội, Bắc Kinh, ngày 05/03/2016. REUTERS/Jason Lee Kỳ họp toàn thể thường niên lần thứ 4 khoá 12 Hội Nghị Chính Hiệp Toàn Quốc là cơ hội để « chủ tịch Tập Cận Bình nhắm tới quyền lực tuyệt tối », theo nhận định của nhật báo Le Figaro trong số ra ngày 05/02/2016. Trước đó vài tuần, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản Trung Quốc đã miệt mài hoạt động để kêu gọi các lãnh đạo đảng thể hiện « lòng trung thành tuyệt đối » với tổng bí thư và để người dân quen dần với cụm từ « chủ tịch Tập là "hạt nhân" lãnh đạo ». Theo nhận định của giáo sư khoa học chính trị Trương Minh (Zhang Ming), thuộc đại học Bắc Kinh, « chiến dịch này nhằm củng cố quyền lực của ông Tập để quảng bá vai trò tuyệt đối của nhà lãnh đạo trong nội bộ đảng ». Thế nhưng, theo nhận định của nhiều nhà phân tích, được Le Figaro trích dẫn, chủ tịch Tập Cận Bình tìm cách vượt trội hơn mức độ quyền lực mà hai người tiền nhiệm "huyền thoại" Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình từng nắm giữ. Trước hết, ông Tập tìm cách xóa sổ mọi hình thức phản đối của mạng lưới những người bất đồng chính kiến, luật sư, nhà báo hay blogger vì đưa ra « những lời chỉ trích vô căn cứ ». Theo các nhà quan sát, nếu chủ tịch Trung Quốc "kiểm soát" được những người này, thì sẽ gây ra một bầu không khí sợ hãi trong hàng ngũ lãnh đạo của đảng. Tiếp theo, thời điểm tiến hành lễ "đăng quang" cũng được nghiên cứu tỉ mỉ, đúng 12 tháng trước đợt cải tổ chính trị trước kỳ đại hội Đảng lần thứ 19. Trong kỳ họp quan trọng này, một phần bộ Chính trị, bộ máy lãnh đạo tối cao của đảng, sẽ được bầu mới. Dĩ nhiên, tổng bí thư Tập Cận Bình cũng sẽ phải tìm cách giữ vị trí của mình thêm một nhiệm kỳ 5 năm. Thêm vào đó, 5 trên tổng số 7 ủy viên thường trực bộ Chính trị sắp đến tuổi nghỉ hưu. Chủ tịch Trung Quốc muốn tự mình chọn 5 người thay thế. Tương tự, ông cũng muốn tự chỉ định 6 thành viên sẽ bị thay thế trên tổng số 25 ủy viên bộ Chính trị, cơ quan quan trọng thứ hai. Ba năm đầu tiên dưới "triều đại" Tập Cận Bình, người đứng đầu Trung Quốc, cũng bị coi là lưỡi hái tử thần của "các Hoàng tử đỏ", tìm cách củng cố quyền lực của mình trong nội bộ đảng. Ông khéo léo tiến hành thăng chức, cách chức thông qua các chiến dịch chống tham nhũng trong nội bộ đảng và lực lượng quân đội. Con đường tiến tới đỉnh cao danh vọng của ông Tập Cận Bình trái ngược với Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào. Cả hai tiền nhiệm cùng đi lên theo con đường truyền thống : Ông Hồ Cẩm Đào dựa vào đoàn Thanh niên Cộng sản đầy thế lực để lên nắm quyền, còn chủ tịch Giang Trạch Dân đi lên từ « phe Thượng Hải ». Riêng ông Tập Cận Bình, trong thời gian làm lãnh đạo tỉnh, đã tìm cách đưa những người thân cận nắm giữ nhiều trọng trách lớn, gây bất ổn cho giới tinh hoa cầm quyền, trước khi ông đạt đến đỉnh cao danh vọng. Sau đó, "Hoàng đế đỏ" bỏ qua những cơ quan thông thường của chính phủ, như các bộ hay các ủy ban của đảng, mà tự thành lập "các nhóm làm việc" phụ trách cải cách trong mọi lĩnh vực quan trọng của đất nước như kinh tế, quân đội, tư pháp… Tự tay ông Tập bổ nhiệm những người thân cận vào vị trí lãnh đạo các nhóm làm việc này. Năm 2015, ông cũng phá vỡ nghi thức ngoại giao và "vô phép" với các nhà ngoại giao Trung Quốc khi cử ông Lật Chiến Thư (Li Zhanshu), chánh văn phòng trung ương, tới Matxcơva tham dự các cuộc họp tại điện Kremlin, trong đó có cuộc họp với tổng thống Nga Vladimir Putin. Tháng 02/2016, chủ tịch Tập lại cử một người thân cận khác, ông Lưu Hạc (Liu He) làm việc với bộ trưởng Tài chính Mỹ Jacob Lew. Đây là công việc thường do phó thủ tướng Uông Dương (Wang Yang) đảm nhiệm. Thu Hằng (RFI)
  16. Bức tranh nhân quyền mỗi năm luôn có những điểm đổi khác với nhiều điều cập nhật, bổ sung mà bạn cần biết. Dưới đây là 5 điều có thể làm bạn ngạc nhiên khi nhìn vào bức tranh tổng thể về nhân quyền. 1/ Truy cập Internet là quyền cơ bản của con người Tháng 3 năm 2011, trong một tuyên bố chính thức, Liên Hợp Quốc khẳng định truy cập Internet là một trong những quyền cơ bản của con người. Theo đó, việc chặn/cắt mạng, không cho người dân truy cập Internet được coi là hành động vi phạm nhân quyền và đi ngược lại luật pháp quốc tế. Ảnh chụp một chương trình phổ biến tin học và internet tại Kenya. Cụ thể, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về Thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do phát biểu và bày tỏ ý kiến nhận định việc cắt, chặn Internet mà không có lý do chính đáng vi phạm Điều 19, Khoản 3, Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Khép lại báo cáo, Báo cáo viên Đặc biệt kêu gọi “tất cả các quốc gia phải đảm bảo duy trì quyền truy cập Internet tại mọi thời điểm, bao gồm cả những thời điểm diễn ra bất ổn chính trị.” 2/ Khái niệm nhân quyền có nguồn gốc từ Iraq Không phải từ Mỹ, Anh, hay bất kỳ quốc gia Tây phương nào, khái niệm “nhân quyền” ra đời cách đây khoảng 2500 năm tại thành Babylon, vùng đất thuộc Iraq ngày nay. Tranh vẽ Cyrus Đại Đế sau khi chinh phục thành công Babylon. Năm 539 TCN, sau khi chinh phục thành Babylon, Cyrus Đại đế, vị hoàng đế đầu tiên của đế quốc Ba Tư cổ đại đã đánh dấu một bước tiến quan trọng cho nhân loại bằng quyết định giải phóng toàn bộ nô lệ. Ông tuyên bố, tất cả mọi người đều có quyền lựa chọn tín ngưỡng tôn giáo riêng, và xác lập mọi nhóm sắc tộc đều bình đẳng. Cùng với những chỉ dụ khác, các chỉ dụ này được khắc lại bằng tiếng Akkadia trên một trục đất sét nung gọi là Trục Cyrus và đây được coi là hiến chương nhân quyền đầu tiên trên thế giới. 3/ Ai cũng có quyền vui chơi, giải trí Được nhắc đến trong nhiều văn kiện nhân quyền khác nhau, song quyền vui chơi, giải trí lại thường bị lãng quên và không được chú trọng phát triển như các quyền con người khác. Cụ thể, các quyền này được phản ánh trong các văn kiện có giá trị pháp lý quốc tế như Tuyên bố Phổ quát về Nhân quyền (UDHR), Công ước Quốc tế về Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và các công ước chuyên biệt như Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) hay Công ước về Quyền trẻ em (CRC). Một lớp học ngoại khóa tại Châu Phi. Tiếp nối các tuyên bố này, Điều 30, Chương14, Công ước Quốc tế về Người khuyết tật cũng quy định rõ, nhà nước phải cung cấp đủ mọi phương tiện, hình thức hỗ trợ để đảm bảo người khuyết tật có thể tham gia vào các hoạt động văn hóa, giải trí, và thể thao. Nói cách khác, theo quy định quốc tế, quyền vui chơi, giải trí là quyền cơ bản mà tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, gái trai, khỏe mạnh hay khuyết tật đều phải được nhà nước đảm bảo. 4/ Tuyên án tử hình là phủ nhận quyền sống của con người Được ghi nhận ngay trong câu đầu tiên về các quyền cơ bản của con người trong Tuyên bố Phổ quát về Nhân quyền, sống là quyền ai ai cũng được hưởng, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Bởi thế, tuyên án tử hình một người chính là hành động tước bỏ quyền cơ bản nhất của người đó. Người biểu tình chống án tử hình. Trên trang thông tin chính thức của mình, Tổ chức Ân xá Quốc tế, một trong mười tổ chức nhân quyền nổi tiếng nhất trên thế giới, khẳng định án tử hình vi phạm hai quyền thiết yếu của con người, đó là quyền được sống và quyền không bị tra tấn. Tính đến nay, có 140/196 quốc gia và vùng lãnh thổ bỏ án tử hình trên luật và trên thực tế. Riêng trong năm 2015, án tử hình đã được xóa bỏ ở 4 nước. 5/ Quyền bỏ thai Bỏ thai được Liên Hợp Quốc xác nhận là quyền con người xuất phát từ một trường hợp hi hữu. Năm 2001, K.L, một phụ nữ 17 tuổi người Peru, được chẩn đoán bào thai 14 tuần cô đang mang bị tật thiếu não, thai có thể chết lưu hoặc chết sau khi chào đời. Mặc dù luật pháp Peru không quy định cấm bỏ thai, song bệnh viện từ chối yêu cầu bỏ thai của K.L. Cô buộc phải tiếp tục thai kỳ và con cô chỉ sống được 4 ngày. Cùng với các luật sư nhân quyền, K.L đã gửi đơn khiếu nại về vụ việc lên Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Năm 2005, Ủy ban kết luận Peru đã vi phạm các điều khoản trong Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị và phải bồi thường cho K.L. Sau 15 năm, năm 2016, K.L đã nhận được khoản bồi thường cho “hành vi đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo” của Peru. Đây là lần đầu tiên một ủy ban của Liên Hợp Quốc buộc một đất nước phải chịu trách nhiệm khi không đảm bảo cho người dân nước mình quyền tiếp được bỏ thai an toàn và hợp pháp./. Trần Lam Phương (tổng hợp) (Luật Khoa)
  17. Sau khi Cách mạng Nhung thành công, Vaclav Havel trở thành tổng thống Tiệp Khắc. Hai tháng sau ông đọc diễn văn trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Chúng tôi trích dịch phần sau bài diễn văn này. Tựa đề của người dịch. * Vaclav Havel Tôi làm tổng thống chỉ mới hai tháng, và tôi đã không theo học trường lớp đào tạo tổng thống nào. Trường học duy nhất của tôi chính là trường đời. Vì thế, tôi không muốn làm phiền quý vị nữa với quan điểm chính trị của mình, mà thay vì thế tôi sẽ chuyển sang lĩnh vực gần gũi hơn với tôi, sang điều tôi muốn gọi là khía cạnh triết học của những thay đổi mà mọi người vẫn còn quan tâm ấy mặc dù chúng đang diễn ra ở đất nước xa xăm của chúng tôi. Chừng nào con người là con người, dân chủ theo ý nghĩa trọn vẹn của từ này sẽ mãi mãi vẫn chỉ là lý tưởng; ta có thể tiến đến gần lý tưởng ấy như ta tiến đến gần chân trời, theo những cách có thể tốt hơn hay tệ hơn, nhưng ta không bao giờ có thể hoàn toàn đạt đến lý tưởng ấy. Theo nghĩa này quý vị cũng chỉ đang tiến đến gần dân chủ. Giống như những nước khác, quý vị cũng có hàng ngàn vấn đề đủ loại. Nhưng quý vị có lợi thế rất lớn: quý vị đã và đang không ngừng tiến đến gần dân chủ trong suốt hơn 200 năm, và cuộc hành trình về hướng chân trời ấy của quý vị chưa từng bao giờ bị gián đoạn bởi chế độ toàn trị. Dù truyền thống nhân văn của họ có từ thiên niên kỷ thứ nhất nhưng Czech và Slovak tiến đến gần dân chủ chỉ trong hai mươi năm, giữa hai cuộc thế chiến, và bây giờ trong ba tháng rưỡi kể từ ngày 17 tháng Mười Một năm ngoái. Lợi thế quý vị có so với chúng tôi thấy rõ ràng ngay. Chế độ toàn trị cộng sản đã để lại cho hai nước chúng tôi, Czech và Slovak, cũng như tất cả các nước ở Liên Xô, và các nước khác mà Liên Xô đã nô dịch dưới thời của nó di sản vô số những người chết, chuỗi dài đau khổ vô tận của con người, kinh tế hoàn toàn suy sụp, và nhất là sự tủi nhục vô cùng lớn của con người. Chế độ đã mang đến cho chúng tôi biết bao kinh hoàng mà may mắn thay quý vị đã không biết đến. Đồng thời, tuy vô tình, tất nhiên chế độ cũng cho chúng tôi điều tích cực: khả năng đặc biệt để đôi lúc nhìn hơi xa hơn người đã không trải qua kinh nghiệm cay đắng này. Người mà không thể nào đi lại và sống cuộc đời bình thường vì y bị tảng đá lớn đè có nhiều thời gian suy nghĩ về bao hy vọng của mình hơn người không bị rơi vào hoàn cảnh như thế. Điều tôi muốn nói là thế này: Tất cả chúng tôi đều phải học hỏi rất nhiều điều từ quý vị, từ cách giáo dục con cái, cách bầu các dân biểu, cho đến cách tổ chức hoạt động kinh tế để từ đấy đưa tới thịnh vượng chứ không phải bần cùng. Nhưng không phải chỉ sự giúp đỡ từ những người học cao, những người quyền thế và những người giàu có cho người không có gì cho lại. Chúng tôi cũng có thể cho lại quý vị: kinh nghiệm của chúng tôi và kiến thức phát xuất từ kinh nghiệm ấy. Đây là chủ đề cho nhiều cuốn sách, trong số ấy nhiều cuốn đã được viết và nhiều cuốn chưa được viết. Kinh nghiệm cụ thể tôi đang đề cập đến đã cho tôi niềm xác tín lớn lao: Ý thức có trước Tồn tại, chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa Marx tuyên bố. Vì lý do này, sự cứu khổ của thế giới con người này không nằm ở đâu khác hơn ở trong tim người, trong sức mạnh suy tư của con người, trong sự khiêm tốn của con người và trong trách nhiệm của con người. Không có cuộc cách mạng toàn cầu trong lĩnh vực ý thức con người thì sẽ chẳng có thay đổi gì tốt hơn trong lĩnh vực tồn tại với tư cách con người của chúng ta, và thế giới này tất đi đến tai họa không thể nào tránh khỏi, cho dù tai họa ấy thuộc về sinh thái, xã hội, dân số hay sự sụp đổ nói chung của nền văn minh. Nếu chúng ta không còn bị đe dọa bởi thế chiến hay bởi nguy cơ là những núi vũ khí hạt nhân chồng chất phi lý biết đâu sẽ nổ tung thế giới, thì điều này không có nghĩa chúng ta đã thắng chắc chắn. Thật ra chúng ta hoàn toàn không đạt đến chiến thắng chắc chắn. Chúng ta vẫn còn cách rất xa “gia đình nhân loại” ấy; thật ra thay vì đến gần gia đình lý tưởng ấy chúng ta dường như đang xa dần nó. Đủ mọi loại quyền lợi: quyền lợi cá nhân, ích kỷ, nhà nước, dân tộc, nhóm và, tất nhiên công ty vẫn quan trọng hơn rất nhiều quyền lợi thật sự chung và toàn cầu. Chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của niềm tin tai hại và hoàn toàn ảo tưởng rằng con người là đỉnh cao của sáng tạo, mà không chỉ một phần của sáng tạo, và vì thế mọi thứ đều được cho phép. Có nhiều người còn nói họ không quan tâm đến bản thân mà quan tâm đến sự nghiệp chung, mặc dù họ rõ ràng chỉ mưu cầu cho bản thân chứ hoàn toàn không cho sự nghiệp chung. Chúng ta vẫn đang tàn phá hành tinh đã được phó thác cho chúng ta, và môi trường hành tinh. Chúng ta vẫn nhắm mắt làm ngơ trước bao xung đột xã hội, sắc tộc và văn hóa ngày càng tăng trên thế giới. Thỉnh thoảng chúng ta nói xã hội kỹ thuật tẻ nhạt chúng ta tạo ra cho mình không còn phục vụ chúng ta nữa mà nô lệ chúng ta, tuy nhiên chúng ta vẫn không làm gì về chuyện này. Nói cách khác, chúng ta vẫn không biết cách đặt đạo đức trước chính trị, khoa học và kinh tế. Chúng ta vẫn không thể hiểu rằng nếu tất cả các hành động của chúng ta hợp với đạo đức thì nền tảng thật sự duy nhất cho tất cả các hành động ấy chính là trách nhiệm. Trách nhiệm với cái gì đấy cao hơn gia đình tôi, tổ quốc tôi, công ty tôi, sự thành đạt của tôi. Trách nhiệm với trật tự Tồn tại, nơi tất cả các hành động của chúng ta đều được ghi lại vĩnh viễn và nơi, và chỉ nơi ấy chúng sẽ được phán xét đúng đắn. Người thông dịch hay người trung gian giữa chúng ta và quyền lực cao hơn này là điều mà từ xưa đến nay thường được đề cập đến như là lương tâm con người. Nếu tôi đặt hành vi chính trị của mình dưới quyền của mệnh lệnh lương tâm này, tôi không thể nào đi quá sai. Ngược lại nếu tôi không được tiếng nói lương tâm này hướng dẫn thì ngay cả mười trường đào tạo tổng thống với 2.000 nhà khoa học chính trị giỏi nhất trên thế giới cũng không thể nào giúp được tôi. Vì vậy sau một thời gian dài chống lại cuối cùng tôi quyết định chấp nhận gánh vác trách nhiệm chính trị. Tôi không phải là trí thức đầu tiên và cũng chẳng phải là trí thức cuối cùng nhận lấy trách nhiệm này. Trái lại, tôi tin thời nào cũng sẽ có càng nhiều trí thức như vậy. Nếu hy vọng của thế giới nằm ở ý thức con người, thì rõ ràng rằng trí thức không thể nào mãi mãi tránh phần trách nhiệm của mình đối với đời và che giấu sự chán ghét chính trị của họ dưới nhu cầu được tuyên bố là độc lập. Thật là dễ dàng có sự độc lập trong chương trình của mình và rồi để cho những người khác thực hiện chương trình ấy. Nếu mọi người nghĩ như thế, chẳng bao lâu sẽ không có ai độc lập. Tôi nghĩ người Mỹ nên hiểu cách suy nghĩ này. Há chẳng phải những đầu óc lỗi lạc nhất của nước quý vị, những người quý vị có thể gọi là trí thức, những người đã thảo ra Tuyên ngôn Độc lập lừng danh của quý vị, Tuyên ngôn Nhân quyền của quý vị và Hiến pháp của quý vị và trên hết cũng là những người tự mình gánh vác trách nhiệm áp dụng chúng vào thực tế? Người công nhân thuộc quận Branik ở Prague, người đã được tổng thống quý vị nhắc đến trong Thông điệp Liên bang vào năm này, hoàn toàn không phải là người duy nhất ở Tiệp Khắc, chứ đừng nói trên thế giới, được khích lệ bởi các văn kiện vĩ đại này. Chúng khích lệ tất cả chúng ta. Chúng khích lệ chúng ta dù chúng đã hơn 200 tuổi. Chúng khích lệ chúng ta hãy trở thành công dân. Khi Thomas Jeferson viết “Nhân dân lập ra chính quyền và đồng thuận ban cho chính quyền quyền lực hợp pháp”, đấy là hành động đơn giản nhưng quan trọng của tinh thần con người. Tuy nhiên điều ban ý nghĩa cho hành động ấy chính là sự thật là tác giả đã suốt đời ủng hộ hành động ấy. Không chỉ bằng lời nói của ông mà cũng bằng hành động của ông. Tôi sẽ kết thúc nơi tôi bắt đầu. Lịch sử đã tăng tốc. Một lần nữa tôi tin rằng chính tinh thần con người sẽ nhận thấy sự tăng tốc này, đặt tên cho nó, và biến những lời ấy thành hành động. Vaclav Havel * Trần Quốc Việt dịch (Dân Làm Báo) Nguồn: Trích dịch từ bài diễn văn của Vaclav Havel trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 21/2/1990. http://www.vaclavhavel.cz/showtrans.php?cat=projevy&val=322_aj_projevy.html&typ=HTML
  18. Những ai đọc ANHBASAM nhiều tháng nay, đều có thể biết câu hỏi này là của tác giả Nguyễn Thị Từ Huy, một người viết có uy tín, uy tín bởi phương pháp tiếp cận có tính cách hàn lâm, bởi sự mạch lạc của tư duy lôgíc và sự sâu sắc phong phú trong kiến thức. Nhưng đề tài được đề cập là vấn đề có tính bao quát lớn, vừa là vấn đề có tính lý luận cơ bản, vừa là vấn đề thực tiễn, cần nhiều dữ liệu. Rất nhiều người đọc không giấu sự tâm đắc với những ý kiến mà tác giả nhận định, những gợi ý cho những kết luận khả dĩ. Nhưng phải thú thật rằng theo dõi cả chín phần của bài viết, tôi chờ đợi một đáp án, khả dĩ làm dịu phần nào sự bức bối. Tuy nhiên, có vẻ như tác giả vẫn để treo câu trả lời, bởi vì, đọc xong, người đọc vẫn không thực rõ "Việt Nam có thể tiến hành cải cách hay không"? Nhưng chính gợi ý của tác gỉả là tiền đề của bài viết này. Bài viết sẽ được trình bày thành ba phần. Phần một là Đảng cộng sản Việt Nam sẽ không tự cải cách. Phần hai Thay đổi là tất yếu. Phần ba Thay đổi bằng cách nào. Với tính chất một bài báo, không thể hy vọng độ sâu và độ chín của các phân tích, nhưng trước một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn lớn, tôi nghĩ có nhiều ý kiến khác nhau chỉ giúp tiệm cận chân lý. Vả lại, cả "cột đình" "cái quạt" cùng rất nhiều những cái khác nữa mới làm ra con voi. *** Phần một - Đảng cộng sản sẽ không tự cải cách. 1- Suốt 85 năm đảng cộng sản VN không thay đổi mục tiêu Chánh cương của Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 do chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Cương lĩnh thứ hai tại Đại hội lần thứ nhất năm 1930 gọi là Luận cương chính trị, do Trần Phú biên soạn ghi "cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Cương lĩnh thứ ba, Đại hội đảng toàn quốc lần thứ hai ( tháng 2-1951) gọi là "Luận cương cách mạng Việt Nam", do Trường Chinh trình bày tiếp tục "xác định nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội" Cương lĩnh thứ tư được gọi là "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991)" do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến 27-6-1991 vẫn khẳng định "phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh". Cương lĩnh thứ năm, năm 2011 là cương lĩnh "bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991" khẳng định "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử". Cương lĩnh này xác định Quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa là một giai đoạn phức tạp cần phải "kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết Đaị hội XII 28/01/2016 "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa". Như vậy, Mục tiêu xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nền tảng Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hòn đá tảng, là linh hồn, là sợi chỉ xuyên suốt sự tồn tại của đảng. 2- Đổi mới không phải là cải cách "Đổi mới, đổi mới đồng bộ và toàn diện" là những từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, theo cách nói hàn lâm là có tần số xuất hiện nhiều nhất trong các văn kiện chính trị cuả đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt là trong tất cả các báo cáo chính trị, các nghị quyết Đại hội từ những năm 80 cuả thế kỷ trước, tức là suốt từ Đại hội VI cho đến Đại hội XII mới kết thúc ngày 28/01/2016. Thực sự là đảng cộng sản đang rất quyết tâm đổi mới. Nhưng nếu tìm từ 'cải cách' thì chỉ thấy 'cải cách hành chính', 'cải cách giáo dục đào tạo', 'cải cách chế độ tiền lương', 'cải cách thông tin tuyên truyền' v.v...mà không thấy có cải cách chính trị, cải cách tư tưởng. Nếu hiểu cải cách là bỏ hẳn cái cũ và thay bằng cái mới, thì rõ ràng chúng ta thấy, đảng cộng sản chỉ thay công cụ, thay phương tiện, không thay đổi mục tiêu. Mục tiêu đó là Xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Mục tiêu này cùng với lấy "Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ Nam cho mọi hành động" vẫnkhông có gì thay đổi từ Luận cương chính trị cuả Trần Phú tới Cương lĩnh 1991, cương lĩnh bổ sung 2011, Hiến pháp 2013, Nghị quyết đại hội XI, Nghị quyết Đại hội XII mới đây. Đó là tư tưởng nhất quán, bất di bất dịch. Đó là cái Bất Biến. Trong buổi lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập đảng 3/2/2000, tổng bí thư Lê Khả Phiêu tuyên bố: “Chúng ta đã đổi mới, nhưng chúng ta quyết không đổi mầu. Những khó khăn và những thử thách sẽ không ép buộc được chúng ta đi ra ngoài con đường xã hội chủ nghĩa”. Những năm cuối 70, đầu 80 thế kỷ trước, chế độ cộng sản đứng trước nguy cơ tan vỡ, sụp đổ. Vừa ra khỏi cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài, sa lầy khơ me đỏ trên đất Campuchia, chiến tranh biên giới với Trung quốc, cấm vận của Hoa kỳ, một miền Bắc xơ xác chạy ăn từng bữa vì hợp tác hóa, một miền Nam tan hoang tiều tụy sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Hoặc chết hoặc trả ruộng đất về cho nông dân, bỏ ngăn sông cấm chợ, giải khóng sản xuất, giải phóng thị trường. Nguyên lý "từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đọan phát triển tư bản chủ nghĩa" buộc phải nhường chỗ cho "vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam". Và lý thuyết "giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội" ra đời, thừa nhận nền kinh tế đa sở hữu, đa thành phần. Đây không phải là kết qủa của thay đổi nhận thức mà là gỉải pháp tình huống, cứu cánh tức thời. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường vẫn giữ nguyên tính gay gắt giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa cách mạng và kẻ thù của nhân dân, dân tộc. Nghị quyết TW 4 Đại hội XI ngày16/01/2012 xác định "các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng". 30 năm đổi mới từ Đại hội 6 năm 1986, nhưng Nghị quyết Đại hội XII 28/01/2016 vẫn ghi "phải kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ". 3- Sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước là thành quả của cách mạng vô sản Cách mạng xã hội chủ nghĩa là qúa trình phi sở hữu hóa xã hội. Lị̣ch sử cách mạng vô sản Việt Nam trong cương lĩnh của Trần Phú là cuộc cách mạng gọi là "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản" được gói gọn thành khẩu hiệu "trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ", rồi được tóm gọn mang tính thiết thực là "đánh đổ phong kiến địa chủ, giành ruộng đất về tay nông dân". Khẩu hiệu này đánh trúng vào ước nguyện ngàn đời của tầng lớp nông dân nghèo khổ đang chiếm tới 98% dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là sức mạnh giúp cho cho đảng cộng sản Việt Nam với chỉ gần 5000 đảng viên giành được chính quyền. Nhưng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là con đường phi sở hữu hóa tư liệu sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, nhằm gỉải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lực lượng sản xuất với tính tư hữu tư bản chủ nghĩa của quan hệ sản xuất, tức là tính tư hữu đối với phương tiện sản xuất. Rập theo khuôn mẫu của Liên xô những năm sau Đại chiến II và của Trung quốc những năm 60, hai quốc gia lần lượt được coi là thành trì của chủ nghĩa Mác Lênin, thành trì kiên cố của phe xã hội chủ nghĩa, Chiến dịch tập thể hóa, hợp tác hóa nông nghiệp, cùng với quốc hữu hóa và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh trên toàn miền Bắc những năm 60, ở miền Nam sau giải phóng bắt đầu từ năm 78, xoá sạch dấu vết của sở hữu tư nhân trên toàn cõi Việt Nam. Đây là một sai lầm nghiêm trọng dẫn đễn đến sự tiêu huỷ hoàn toàn, triệt để mọi hạ tầng cơ sở của một nền kinh tế thông thường, biến Việt Nam thành một đất nước tan hoang, ngược trở lại thời kỳ đồ đá, nhưng vẫn tiếp tục được coi là một thành quả cách mạng, theo khía cạnh là thủ tiêu tiềm lực của các đối trọng chính trị, của các lực lượng đội kháng, tiềm ẩn trong chế độ tư hữu ruộng đất và tư hữu tư bản chủ nghĩa trong công nghiệp, công thương, kẻ thù của cách mạng vô sản. Điều này phù hợp với nguyên tắc chuyên chính vô sản của Lênin, và sau này thành công cụ tập quyền cá nhân của Stalin, là nguyên tắc được đảng cộng sản các nước tôn thờ như một vũ khí vô địch của cách mạng. Điều 4 Luật đất đai ra đời năm 2013 và được sửa đổi năm 2015 vẫn ghi "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý", bất chấp sự phản đối của toàn dân, ý kiến đóng góp của rộng rãi mọi tầng lớp tinh hoa của xã hội. Quốc hữu hóa đất đai, quốc hữu hóa toàn bộ tài nguyên khoáng sản, toàn bộ rừng biển, quốc hữu hóa toàn bộ công xưởng, nhà máy, xí nghiệp tư nhân là thành quả to lớn của cách mạng vô sản trên con đường xóa bỏ sở hữu để tiến tới xã hội chủ nghĩa, dù phải chấp nhận tạm thời cơ chế đa sở hữu, chấp nhận cơ chế thị trường, chỉ là giải pháp cho thời kỳ quá độ để giữ ổn định xã hội, để bảo vệ sự tồn tại của chế độ. Sau khi thời kỳ quá độ này hoàn thành, các thành phần kinh tế tư nhân, các hình thức sở hữu tư nhân sẽ dứt khoát bị dẹp bỏ. Cương lĩnh chính trị bổ sung và phát triển 2011 nói, "đến giữa thế kỷ XXI, chúng ta phải xây dựng xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu". 4- Hoà hoãn với Trung Quốc để bảo vệ chế độ Chính danh cuả cách mạng Việt Nam được dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Xa rời chủ nghĩa Mác, xa rời quốc tế cộng sản là biểu hiện rời bỏ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, là phản bội cách mạng, là không còn tính chính danh. Trung quốc có vai trò thay thế Liên xô là thành trì duy nhất còn lại của phong trào cộng sản quốc tế, trụ cột của lý tưởng cách mạng vô sản toàn cầu. Duy trì mối quan hệ hữu nghị với đảng cộng sản Trung Quốc là nguyên tắc trong điều lệ sinh hoạt tư tưởng và công tác xây dựng đảng. Bất chấp mọi mâu thuẫn xung đột về quyền lợi hay chủ quyền quốc gia, đảng cộng sản Trung quốc luôn được coi là đồng minh ý thức hệ tin cậy nhất, chỗ dựa bền vững nhất cho chế độ độc đảng cộng sản cai trị, vì vậy mới có cách gọi các xung đột là "xích mích của anh em trong nhà". Một trong những cơ chế gắn bó mật thiết giữa hai đảng mà không một mối quan hệ nào có được, đó là Hội thảo Lý luận hàng năm, được tổ chức luân phiên, một năm tại Việt Nam, một năm tại Trung quốc, giữa hai uỷ viên bộ chính trị, nắm giữ trách nhiệm lý luận và tư tưởng của mỗi đảng, cùng với khoảng 50 cán bộ nghiên cứu lý luận cao cấp của mỗi bên. Nguyễn Phú Trọng là một bên đồng sáng lập, năm 2003. Đây là cơ chế vừa đảm bảo tính trung thành với chủ nghĩa cộng sản của hai đảng, vừa là cơ chế giải quyết các xung đột mọi phương diện thông qua thương lượng trên nền nguyên tắc của tinh thần quốc tế cộng sản. Việc mỗi bên lập viện bảo tàng thành tựu Hội thảo và tổ chức kỉ niệm, tổng kết thành quả mỗi kỳ 5 năm là cơ chế đảm bảo tương hỗ cho sự tồn tại cuả chế độ như một đồng minh. Hội thảo gần đây nhất là Hội thảo lần thứ XI, do Chủ tịch Hội đồng lý luận Tw Đinh Thế Huynh, uỷ viên bộ chính trị, trưởng ban tuyên giáo TW dẫn đầu phía Việt Nam, và Lưu Bảo Châu, uỷ viên bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc, bí thư Ban bí thư và là trưởng Ban tuyên truyền TW đảng cộng sản Trung Quốc dẫn đầu, họp tại Thượng Hải, ngày 17/06/2015. Không còn cơ chế Hội thảo lý luận thì cũng không còn Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan. 5- Thúc đẩy quan hệ với Mỹ cũng chỉ để bảo vệ chế độ Quan hệ với Mỹ luôn là nhu cầu và nguyện vọng cuả lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, trước hết vì Mỹ là một đảm bảo chắc chắn cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, một đảm bảo cho sự ổn định của xã hội, cũng có nghĩa là ổn định của chế độ. Một khía cạnh khác là Mỹ vốn không bao giờ có ý định bành trướng lãnh thổ, quan hệ với Mỹ không bị đe dọa chủ quyền, trong khi trên thực tế, với tư cách người giữ trật tự thế giới, Mỹ là người có vai trò đặc biệt có ảnh hưởng tới khả năng bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trước nguy cơ và áp lực bành trướng, chiếm đoạt lãnh thổ, lãnh hải của láng giềng Trung quốc. Nhưng Mỹ là quốc gia cổ súy tự do dân chủ, là quốc gia luôn đứng đầu thế giới trong cuộc chiến chống độc tài chính trị và vi phạm nhân quyền, trên quy mô địa cầu. Ở khía cạnh này, Mỹ là kẻ thù của đảng. Vì vậy quan hệ với Mỹ trước hết phải được đảm bảo không nhằm lật đổ hay thay đổi chế độ. Chuyến thăm Mỹ theo lời mời cuả tổng thống Mỹ OBAMA được bà Hillary Clinton chuyển tới Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từ tháng 7/2012, nhưng mãi ba năm sau, ngày 5/7/2015 mới được thực hiện. Không phải Đảng cộng sản Việt Nam thiếu nhiệt tình. Đây là ước muốn bất ngờ đối với toàn đảng và với chính bản thân ông Trọng. Lời mời của tổng thống Mỹ là một chứng chỉ cho tính chính danh đang chìm trong khủng hoảng của đảng cộng sản. Nhưng trước hết phải khẳng định lời mời không phải là một cái bẫy chính trị, chính phủ Mỹ sẽ lợi dụng chuyến thăm để gây áp lực dân chủ hóa xã hội Việt Nam, tạo dựng các nhân tố thay đổi chế độ trong tương lai. Một chiến dịch thẩm soát được tổ chức hết tốc lực, bất chấp mọi tốn kém. Phải soi xét tất cả các góc khuất, phát hiện mọi bí ẩn. Phải xét từng từ trong các văn bản sẽ phải đưa ra ký kết. Trước hết và trên hết, thể chế cộng sản độc đảng Việt Nam phải được thừa nhân như một chính thể chính đáng, một thứ chủ quyền quốc gia, bất khả xâm phạm. Chuyến thăm Mỹ vừa kỳ lạ vưà bất ngờ của ông bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị, một nhân vật không chức vụ trong chính phủ, không đại diện Thủ đô, một nhân vật thuần tuý chính trị, không tương ứng với bất kỳ tư cách nào của chínmh phủ Mỹ, được ném đi như viên đá dò đường, vào ngày 21/07/2014, đúng một năm trước ngày ấn định chính thức. Sau nữa là an ninh chính trị, uy tín ngọai giao, và cuối cùng là an ninh cá nhân cuả tổng bí thư phải được đảm bảo tuyệt đối. Chuyến công du 5 ngày, từ 15 đến 20/03/2015 của bộ trưởng công an Trần Đại Quang là thẩm định lần cuối, là đảm bảo cho việc hoàn tất mọi công tác chuẩn bị. Nhưng dẫu cho sự thân thiện cởi mở chân thực trong suốt hai mươi năm quan hệ bình thường giữa hai nước là có thật, mối nghi ngờ về một đe dọa "diễn biến" "chuyển hoá" đã khiến tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng buộc phải lợi dụng lễ kỉ niệm 100 ngày sinh của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, ngày 1/07/2015, đúng bốn ngày trước ngày thăm chính thức để chuyển thông điệp tới tổng thống OBAMA và chính phủ Mỹ, rằng "Trong điều kiện nước ta, không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động... hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều mà nhân dân ta dứt khoát không chấp nhận". 6- Chống tham nhũng chỉ để bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ. Mặc dù Luật phòng chống tham nhũng được ban hành từ 29/11/2005, nhưng tham nhũng không hề suy giảm mà ngược lại, đã trở thành một tệ nạn phổ biến tràn lan, trên toàn bộ hệ thống xã hội, như phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan nói: "người ta ăn của dân không từ một thứ gì". GS. Hoàng Chí Bảo, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, cũng nói rất đúng rằng "Giờ có cả tham nhũng trong chính sách, tham nhũng trong chính trị chứ không chỉ có tham nhũng trong kinh tế. Tham nhũng giờ không phải là tham nhũng vặt mà là tham nhũng lớn, không chỉ tham nhũng cá biệt mà còn thành cả hệ thống." Đấy là biểu hiện bất lực của pháp luật. Chính ông Trọng cũng phải thừa nhận, "muốn chống được tham nhũng phải chống ngay trong các cơ quan chống tham nhũng". Ông Thủ tướng là trưởng ban TW phòng chống tham nhũng, nhưng chính ông này là một đối tượng tham nhũng. Nhưng thu quyền trưởng Ban phòng chống tham nhũng vào tay, thì ông chỉ làm được việc gạt bỏ ông Dũng và một loạt những phần tử tham nhũng khác. Nhưng nguyên nhân, gốc rễ của tham nhũng vẫn còn nguyên. Luật Phòng chống tham nhũng 2005 định nghĩa "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi." và tài sản có khả năng tham nhũng cao nhất là những tài sản công và những loại tài sản không xác định được sở hữu, như đất đai, tài nguyên, các tài sản thuộc vốn và tài sản nhà nước, các tập đoàn, các tổng công ty quốc doanh.v.v... Như vậy, rõ ràng giải pháp cho phòng chống tham nhũng phải cơ bản có hai mặt. Một là tính tối thượng và độc lập của Pháp luật. Nhưng nghị quyết đảng nói quyền lực cuả nhà nước là thống nhất. Lập pháp hành pháp và tư pháp được phân công tách bạch về chức năng nhưng thống nhất về mục tiêu chính trị. Mà mục tiêu chính trị là độc quyền của đảng với những con người bằng xương bằng thịt là bộ chính trị. Thực chất cuả sự thống nhất này là cả ba cơ quan đều chịu sự phân công và điều chỉnh của bộ chính trị. Hai là sở hữu hóa tất cả mọi lọai tài sản. Nhưng đất đai, tài nguyên khóang sản, rừng, biển, các loại tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện làm chủ sở hửu. Nhà nước là tất cả, nhưng Nhà nước là vô hình, thực chất mọi tài sản kể trên kia đều là tài sản vô chủ. Nếu phi chính trị hóa Lập pháp, và Tư pháp, nếu sở hữu hóa mọi tài sản công, thì chủ nghĩa xã hội tự tan vỡ, đảng cộng sản tự tiêu tan. 7- Ông Trọng không phải là người cải cách Ông Nguyễn Phú Trọng không phải là người có tư tưởng cải cách. Ông Trọng là người ít xuất hiện trên truyền thông đại chúng và rất hạn chế phát ngôn trước công chúng. Ông có ý thức trong việc tránh gây dư luận. Tuy nhiên, không khó để thấy ông chính là tảc giả của cái chế độ hiện nay của nhà nước cộng sản Việt Nam. Trong lịch sử, Chủ tịch đảng, Tổng bí thư đảng từ Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn thường đồng thời là linh hồn, là cột trụ lý luận Trung ương, nền tảng tư tưởng của toàn đảng. Sau cái chết của Nguyễn Văn Linh, nền lý luận của đảng cộng sản bắt đầu thời kỳ khủng hoảng, cùng với sự sụp đổ của Liên xô, ngọn cờ đầu của chủ nghĩa chủ nghĩa Mác Lênin và phong trào cộng sản quốc tế, thành trì kiên cố của phe xã hội chủ nghĩa. Tổng bí thư Đỗ Mười, một người mà chính cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gọi là một "người võ biền". Nền lý luận thực sự không còn gì sau hai nhiệm kỳ làm Tổng bí thư của Nông Đức Mạnh. Chính lúc đó, Nguyễn Phú Trọng, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí cộng sản, xuất hiện như vị cứu tinh của nền lý luận cộng sản Việt Nam. Năm 2001vừa làm bí thư Hà Nội vừa kiêm chủ tịch Hội đồng lý luận TW, phụ trách việc soạn thảo các văn kiện chính trị chuẩn bị Đại hội đảng lần thứ X. Có thể coi là từ lúc này, ông trở thành kiến trúc sư trưởng của chế độ. Cương lĩnh chính trị năm 2011 bổ sung và phát triển Cương lĩnh 1991, chính là sự khẳng định tư tưởng nhất quán của ông kế tục tư tưởng của Nguyễn văn Linh, trung thành tuyệt đối với lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa Mác Lê nin. Ông là người đầu tiên trong số uỷ viên Bộ chính trị nói rõ quan điểm không chấp nhận đa nguyên đa đảng. Trả lời phỏng phấn thông tấn xã Ấn độ ngày 23/02/2010, trong chyến thăm Ấn Độ với tư cách Chủ tịch Quốc Hội, ông Trọng khẳng định"Việt Nam không có nhu cầu khách quan để đa nguyên, đa đảng". Ngày 30/06/2015, trong lễ kỷ niệm 100 ngày sinh cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, ông một lần nữa tuyên bố "dứt khoát không chấp nhận đa nguyên đa đảng"... "không để hình thành đảng chính trị đối lập". Tháng Hai, năm 2013 đánh giá các kiến nghị sửa đổi Hiến pháp của 72 nhân sỹ, trí thức có uy tín, đại diện giới tinh hoa trong nước, ông nói "Vừa rồi đã có các luồng ý kiến, cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống." Sau đó ông quy chụp "Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm đấy, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thế là suy thoái chứ còn gì nữa. Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể, thì nó là cái gì? Nên phải quan tâm xử lý những điều đó." Ông nghiền ngẫm để cho ra được nghị quyết 4, nhằm kết tội "suy thoái, diễn biến". Ông phát động chiến dịch luân chuyển cán bộ để tẩy não, để thay máu bộ máy quyền lực, để tạo không khí khủng bố trong toàn đảng và toàn xã hội, chỉ với một mục đích duy nhất là bảo vệ sự kiên cố bất khả chuyển hóa của lập trường Mác Lênin, của chế độ cộng sản độc đảng, của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh 2011 của đảng ghi: "Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa", còn ông thì nói: có lẽ phải đến giưã thế kỷ này mới kết thúc giai đoạn quá độ. Rồi ông lại tự hỏi “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa….” Khoan chưa tranh luận với ông về cái chủ nhĩa xã hoàn thiện của ông là gì và có tồn tại hay không, điều chúng ta quan tâm ở đây là sự chết cứng trong tiềm thức tư duy của ông. Cái ảo ảnh không tưởng xuất hiện trên thế giới từ gần hai thế kỷ nay vẫn còn nguyên trong đầu ông như chất kết tủa, là bằng chứng không thể chối cãi rằng ông Không phải là người cải cách. Kết luận Trong phần kết bài "Việt Nam có thể tiến hành cải cách hay không?" Tác giả Nguyễn Thị Từ Huy có viết: Chỉ có một số rất ít người nhìn vào sự liêm khiết về tiền bạc của ông mà đặt một hy vọng mong manh rằng ông có thể thực hiện các cải cách cần thiết. Trong số rất ít này có tôi, người viết bài này. Như vậy, trong số rất ít người ấy, không có tôi. Có thể tôi chưa có đủ lý lẽ, nhưng với những gì tôi thấy tới lúc này, thì tạm thời, tôi không nói khác được. Paris 05/03/2016 Bùi Quang Vơm (Dân Làm Báo)
  19. Không chịu được sức ép của truyền thông khi những thông tin về hàng loạt sai phạm của mình bị Thanh tra Chính phủ (TTCP) khui ra được đăng tải dày đặc trên báo chí mấy ngày nay, hôm 4-3, “ông lớn ngành xăng dầu” Petrolimex đã phải lên tiếng “cầu cứu” Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin Truyền thông. Trong công văn ngày 4-3-2016 do phó Tổng giám đốc Tập đoàn xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) Trần Ngọc Năm ký gửi Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông “Về việc: Đưa tin về kết luận của TTCP tại Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam”, tập đoàn này nói như sau: “Trong 2 ngày qua một số cơ quan báo chí đã đưa tin về kết luận của TTCP liên quan đến Tập đoàn xăng dầu Việt Nam. Về vấn đề này Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam đã có công văn giải trình gửi Văn phòng Chính phủ và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị xem xét lại một số kết luận của TTCP”... Theo Tập đoàn này, hiện nay kết luận này vẫn đang còn một số ý kiến khác nhau, nên đề nghị rà soát lại. TTCP cũng đang hoàn tất kết luận cuối cùng trình Thủ tướng Chính phủ, trước khi công bố chính thức. Do đó, tập đoàn này đề nghị Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin Truyền thông chỉ đạo các báo đưa tin theo đúng quy định của pháp luật. Trước đó, từ đầu tháng 3-2016 đến nay, nhiều tờ báo đã đăng tải thông tin về các sai phạm trong hoạt động kinh doanh của Petrolimex, do TTCP “khui ra”. Cụ thể là các sai phạm liên quan đến công bố và quản lý bán lẻ xăng dầu, đầu tư tài chính kém hiệu quả, gây thất thoát nguồn vốn… Thông tin này ngay lập tức được dư luận hết sức quan tâm. Đặc biệt, người tiêu dùng hết sức bất bình trước thông tin Petrolimex “nhập nhèm” trong công bố giá bán lẻ xăng dầu và thu lãi lớn (mỗi lít xăng tập đoàn này bỏ túi 222 đồng)… Trên thực tế, các bài báo sử dụng nguồn thông tin do chính Petrolimex cung cấp. Đơn cử, ngày 3-3-2016, Petrolimex đã chính thức gửi thông cáo về kết quả sản xuất kinh doanh năm 2015 với phân tích cụ thể về tổng lợi nhuận, lợi nhuận từ kinh doanh xăng dầu. Tổng doanh thu hợp nhất (của tất cả các đơn vị thành viên Petrolimex trên tất cả các lĩnh vực kinh doanh) lên tới trên 146 ngàn tỷ đồng (khoảng 7 tỷ USD). Tổng lợi nhuận trước thuế của Petrolimex tăng mạnh, đạt tới 3,766 tỷ đồng, khoảng 10 lần so với năm 2014 (chỉ lãi khoảng 321 tỷ đồng). Ở Việt Nam, giá xăng dầu do nhà nước quyết định, thường chỉ có tăng chứ không giảm, cho dù giá dầu hỏa của thế giới giảm mạnh. Cuộc sống của người dân Việt đã phải vất vả do giá cả sinh hoạt tăng, chỉ để làm giàu cho một nhóm lợi ích thiểu số trong ngành dầu khí. Vũ Minh Ngọc (SBTN)
  20. Vừa qua tôi thông báo từ bỏ Đảng. Điều này gây ra những dư luận khác nhau. Sau khi công bố bài “Nhìn lại cuộc đời đối với Đảng cộng sản”, tôi thấy cần viết rõ thêm vài sự kiện. Tự xét thấy việc vào ĐCS của mình có vài chỗ đáng được bình luận hoặc tham khảo nên tôi viết ra, mong làm rõ một số chuyện để rộng đường xem xét. Thời còn sinh hoạt trong Đoàn Thanh niên Cứu quốc và Thanh niên Lao động (trước và sau 1956) nhiều đoàn viên đặt mục tiêu phấn đấu trở thành đảng viên, họ xem đó là một vinh dự rất lớn, là nhiệm vụ cao đẹp. Đó là do họ đã tin theo đúng tuyên truyền của Đảng. Riêng một số khác, trong đó có tôi không đặt mục tiêu như vậy. Chúng tôi cũng phấn đấu nhưng để trở thành cán bộ khoa học giỏi chuyên môn, có đạo đức và phương pháp tốt, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Đến lúc đó Đảng có kết nạp hay không là tùy Đảng. Chúng tôi, một số trí thức trẻ, không những tích cực làm công tác chuyên môn và học tập nâng cao trình độ, mà còn hăng hái tham gia công tác đoàn thể, xã hội và chiến đấu. Thời kỳ năm 1960-1968 có nhiều giai đoạn tôi hoàn thành công việc gấp 2, gấp 3 lần định mức mà không nhận tiền làm thêm giờ, để hưởng ứng phong trào “ Mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba vì đồng bào Miền Nam ruột thịt”. Nhưng khi nhiều trí thức trẻ càng hoàn thiện trình độ và nhân cách thì sự xa rời giữa Đảng với họ càng tăng lên. Đó là vì Đảng muốn quần chúng trí thức phải thường xuyên xin ý kiến chỉ đạo về công tác và sự phấn đấu tu dưỡng tư tưởng, để tỏ ra phục tùng và trung thành với Đảng mà thực chất là với bí thư chi bộ (mà các bí thư này có một số thường thua kém nhiều mặt), còn trí thức thì đề cao sự tự trọng, không chịu được sự luồn cúi, nịnh hót. Thế là một số trí thức bị quy kết là kiêu ngạo, xa rời Đảng, là chỉ có “chuyên” mà kém “hồng”, trong lúc tiêu chuẩn cho cán bộ khoa học là vừa hồng, vừa chuyên, mà hồng quan trọng hơn.. Được biết, vào khoảng năm 1961, sau khi 5 trường Đại học đầu tiên cung cấp cho đất nước vài ngàn trí thức trẻ thì Tổ chức và Tuyên giáo của Trung ương Đảng giật mình vì trong số đó thành phần công nông chiếm tỷ lệ thấp, một số khá đông xuất thân từ tầng lớp trên. Đặc biệt cán bộ giảng dạy của các trường đại học, phần đông xuất thân từ thành phần tư sản, địa chủ. Khi chọn lựa các sinh viên tốt nghiệp giữ lại làm cán bộ giảng dạy, các ông Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Di, Hoàng Xuân Tùy… quan tâm nhiều đến trình độ chuyên môn mà hơi coi nhẹ thành phần xã hội. Thế thì làm sao bảo đảm tính giai cấp vô sản trong trí thức. Nghe nói có chỉ thị mật chia trí thức làm các loại: Loại 1- Cốt cán, được tiếp tục đào tạo cả về chính trị và chuyên môn. Loại 2-được sử dụng và đào tạo tiếp về chuyên môn. Loại 3-được sử dụng, không đào tạo tiếp, nhưng khuyến khích họ tự nâng cao trình độ. Loại 4- Chỉ sử dụng vào nơi không quan trọng hoặc tìm cách loại bỏ. Tôi may mắn được ở vào giữa loại 3 và loại 2 vì gia đình có công với CM, con liệt sĩ và rất tích cực trong công tác. Gần như tất cả các người loại 1 và phần lớn loại 2 được cho đi các nước XHCN làm nghiên cứu sinh, bảo vệ luận án Phó tiến sĩ, về nước giữ các chức vụ chủ chốt về chuyên môn. Ở các trường đại học, trí thức loại 1 được làm lãnh đạo trường và khoa, lọai 2 chủ yếu được giao nhiệm vụ trưởng bộ môn. Trước năm 1980 phần lớn các trưởng bộ môn là ngoài đảng. Riêng khoa nơi tôi công tác, có 6 bộ môn thì cả 6 trưởng bộ môn đều ngoài đảng. Những Phó tiến sĩ dần dần được phong Phó giáo sư rồi Giáo sư, và như vậy phần lớn các PGS và GS cũng ở ngoài đảng. Họ không được kết nạp vì theo ý chi bộ, họ chưa đạt tiêu chuẩn đảng viên, một số vướng vào lý lịch, số khác bị cho là chuyên môn thuần túy mà thiếu “hồng”. Theo Chi bộ đảng thì hồng là thuộc về chính trị, là cái gì cũng xin ý kiến và nghe theo Đảng, là luôn gần gủi các đảng viên để được góp ý, được chỉ bảo, được giáo dục. Nếu không như thế thì bị qui kết là thiếu ý thức, là tự cao tự đại, là xa rời Đảng và quần chúng. Thế là chưa đạt tiêu chuẩn (điều kiện đủ) để trở thành đảng viên. Trong một lần Đại hội Công đoàn trường vào năm 1980, tôi phát biểu ý kiến như sau : “Đề nghị Công đoàn đóng góp xây dựng Đảng bộ. Tôi cho rằng trong trường đại học, để cho Đảng có đủ sức lãnh đạo công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học thì nên tăng cường kết nạp các giáo sư, BCH công đoàn nên giới thiệu các anh chị đó cho Đảng vì họ đã quá tuổi thanh niên“. (Nếu còn tuổi thanh niên thì do Đoàn Thanh niên giới thiệu). Tối hôm đó tôi được anh bạn Nguyễn Mậu Bành đến chơi và trao đổi ý kiến. Anh Bành là trí thức loại 1, đang là ủy viên thường vụ đảng ủy trường. (sau này là Chủ tich Công đoàn ngành giáo dục) . Xin tóm lược cuộc trao đổi theo trí nhớ . Anh Bành cho biết thường vụ đảng ủy đã được phản ảnh ý kiến của tôi, cử anh đến gặp để trao đổi rồi về báo cáo lại cho đảng ủy. Tôi nói : Nếu đảng ủy muốn biết ý kiến thì khi nào các anh họp, cho gọi, tôi sẽ đến trình bày trong 15 đến 30 phút, còn bây giờ anh nghe rồi về nói lại, sợ có chỗ không nhất quán. Anh Bành đồng ý sẽ về nói lại ý của tôi và khi nào đảngy ủy họp sẽ cho mời đến trình bày. Tuy vậy anh bảo, giữa chỗ bạn bè cứ nói cho anh nghe một vài ý kiến. Tôi nói, việc kết nạp đảng viên từ trước đến nay phần lớn sai về phương pháp. Đảng tuyên truyền quá nhiều về vinh dự và quyền lợi đảng viên làm cho nhiều người có động cơ lệch lạc khi phấn đấu vào đảng, tổ chức đảng quá coi nặng điều kiện đủ mà bỏ qua hoặc coi nhẹ điều kiện cần nên nhiều kẻ cơ hội được dịp vào đảng (mà nhiều người gọi là chui vào). Người cơ hội thể hiện dưới 2 dạng. Dạng1- Trước khi vào Đảng và trong thời kỳ dự bị họ phấn đấu rất tích cực, sau khi được chính thức họ không tích cực nữa. Dạng 2- Sau khi vào Đảng họ tìm mọi cách tiến thân, leo lên các chức vụ cao, không phải bằng năng lực thực sự mà bằng cách dựa vào ô dù, dùng các thủ đoạn chạy chức chạy quyền, thủ đoạn “đội trên đạp dưới” . Đúng ra khi định kết nạp ai Đảng nên thảo luận trước hết về điều kiện cần, sau mới xét xem điều kiện đủ. Nếu Đảng thấy cần kết nạp người A cho một công việc nào đấy mà người này còn thiếu một vài điều kiện đủ, hoặc họ không muốn vào Đảng thì nên chủ động tuyên truyền, vận động họ vào và tìm cách giúp họ đạt tiêu chuẩn. Thông thường nhiều chi bộ không làm như vậy. Trong thời gian qua ở trường kết nạp được một số đảng viên là công nhân, cấp dưỡng, bộ đội phục viên mà ít kết nạp được các tiến sĩ, giáo sư là vì nguyên nhân đó. Không rõ lời góp ý của tôi có tác dụng gì không, nhưng từ đó trở đi tôi thấy Đảng bộ trường đã kết nạp được một số đáng kể các giáo sư, tiến sĩ. Chắc là Đảng ủy đã được cấp trên cho phép mở rộng việc kết nạp các trí thức bậc cao. Riêng việc tôi vào Đảng cũng gặp một số oái oăm. Lúc còn ngoài đảng tôi vẫn được tín nhiệm trong công tác chuyên môn và đoàn thể. Về chuyên môn tôi là tiến sĩ, phó giáo sư, trưởng bộ môn. Về đoàn thể, nhiều năm tôi được bầu làm Phó chủ tịch công đoàn, (Chủ tịch phải là một Đảng ủy viên), trưởng ban đại diện công nhân viên chức, nhiều lần ngồi chủ tịch đoàn trong các đại hội công đoàn và hội nghị công nhân viên chức. Vì thế khi Đảng ủy thông báo hỏi ý kiến rộng rãi có nên kết nạp tôi không thì nhiều người quá ngạc nhiên vì họ tưởng nhầm tôi đã là một đảng viên kỳ cựu. Riêng khi biểu quyết ở chi bộ thì không suôn sẻ. Hai đảng viên giới thiệu tôi, là bí thư chi bộ Hoàng Như Tầng và phó chủ nhiệm khoa, bí thư liên chi bộ, đảng ủy viên Nguyễn Văn Tấn. Hai anh này có phẩm chất tốt nhưng trong việc giới thiệu tôi các anh hơi chủ quan, cho rằng với cương vị của các anh, với phẩm chất và uy tín của tôi thì việc thông qua chi bộ sẽ dễ dàng thôi. Không ngờ trong cuộc họp chi bộ để xét kết nạp có vài đảng viên đưa ra hết thắc mắc này đến thắc mắc khác. Biểu quyết không đạt 100%, phải dừng lại để điều tra thêm. Sau cuộc họp anh Tầng gặp tôi. Tôi giải thích rõ ràng, các thắc mắc chỉ dựa vào một phần nhỏ sự thật rồi suy luận, có thể là nhầm lẫn, cũng có thể là ngụy biện. Tôi đề nghị trong cuộc họp sau để tôi tham dự, ai có thắc mắc gì tôi sẽ giải đáp ngay. Nhưng theo nguyên tắc không được làm như vậy. Cuộc họp sau, những thắc mắc lần trước được giải đáp, lại phát sinh các thắc mắc mới, vẫn chưa thông qua được 100%. Sau cuộc họp anh Tầng lại gặp tôi, than phiền về thái độ của những người thắc mắc và đề nghị tôi tìm cách khắc phục. Tôi đề nghị, nếu không được dự họp thì tôi ngồi ở nhà gần đó. Khi có thắc mắc gì không ai giải đáp được thì anh đến gặp tôi để nghe giải đáp rồi về cuộc họp nói lại. Đây đã là lần thứ ba, mà dân ta hay tin là “ sự bất quá tam”. Đề nghị không được chấp nhận. Tôi buộc lòng phải nhờ anh Tầng trao đổi riêng với một số đảng viên ý kiến sau : Ai có thắc mắc gì thì nên viết ra giấy cho bằng hết, chi bộ đưa trước cho tôi để tôi trả lời, không nên cứ mỗi cuộc họp lại đưa ra vài điều thiếu căn cứ, không biết đến bao giờ cho hết. Tôi công tác ở trường đã 25 năm, như thế nào thì nhiều người biết rõ. Năm nay tôi đã 48 tuổi, không còn trẻ nữa. Tôi vào Đảng là để cùng các đảng viên làm tốt công việc chứ không vì lợi ích cá nhân. Nếu lần này mà vẫn còn thắc mắc, không thông qua được thì tôi sẽ rút đơn . Sau khi tôi và các đồng chí nêu thắc mắc đều về hưu, tôi sẽ đến gặp từng người tại nhà riêng hỏi tại sao họ ngăn cản tôi vào Đảng, nếu họ xét thấy đủ lý do chính đáng thì giữ nguyên ý kiến, còn không thì biểu quyết đi cho được 100% như yêu cầu. Kết quả lần thứ 3 mới thông qua được. Một lần đi nghỉ mát, tôi được xếp ở chung phòng với Hiệu trưởng Nguyễn Văn Chọn. Anh kể : Trong nhiều năm ở cương vị thường vụ đảng ủy, xét kết nạp nhiều chục đảng viên, chưa có lần nào phải xét lâu và gay cấn như trường hợp của tôi. Tôi nói : Chắc là do anh Trà, trưởng phòng tổ chức, ủy viên thường vụ, gây ra chứ gì. Bề ngoài tôi với anh ấy là bạn bè nhưng trong công tác có nhiều việc chống đối nhau. Trong cương vị trưởng bộ môn, trưởng ban thường trực công nhân viên chức và phó chủ tịch công đoàn tôi đã vài lần tranh luận với anh và lần nào anh cũng không thắng được tôi, không áp đặt được tôi, nói nôm na là chịu thua về lý lẽ, vì vậy anh không ưa gì tôi. Sau này nghĩ về sự trung thực của mình, một người ngoài Đảng dám tranh luận với trưởng phòng tổ chức và không chịu sự áp đặt, tôi cũng hơi giật mình. Rất may là tôi ở trong môi trường Đại học, gặp được nhiều hiệu trưởng, bí thư đảng ủy có trình độ cao về nhân văn, lại có đội ngũ các thầy giáo hậu thuẩn chứ ở nơi khác chắc là khó giữ được cương vị công tác. Tại sao lúc trẻ tôi không phấn đấu vào Đảng, đến gần 50 tuổi mới vào. Như đã viết, mục tiêu tôi vào là để làm việc tốt hơn. Nếu tôi chỉ tập trung toàn lực vào khoa học thì có lẽ chẳng vào làm gì. Số là từ khoảng 40 tuổi trở đi, khi nhận thấy việc lãnh đạo của Đảng, việc quản lý xã hội có nhiều điều bất cập, tôi bỏ công tìm hiểu các vấn đề về lãnh đạo và quản lý. Càng tìm hiểu tôi càng say sưa và tự phát hiện mình có năng khiếu. Với bộ môn, tôi đã lãnh đạo, xây dựng thành đơn vị xuất sắc, được thưởng huân chương Lao động. Với khoa và trường tôi suy nghĩ và đóng góp nhiều ý kiến đổi mới, cải tiến mà tôi cho là quan trọng. Nhưng những ý kiến như vậy thường bị xếp xó hoặc bị lợi dụng. Lịch sử và thực tế cho thấy, khi bạn có ý tưởng hoặc kế hoạch tốt đẹp cho tập thể, muốn thực hiện được thì tốt nhất bạn phải có cương vị thích hợp hoặc có được “ minh chủ” chịu nghe bạn. Không có được một trong 2 thứ đó thì rất khó để thực thi ý tưởng. Tôi đang có nhiều ý tưởng nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo mà ở cương vị trưởng bộ môn không đủ quyền hạn thực hiện, chỉ có quyền góp ý lên trên. Muốn thực hiện được phải có chức vụ tối thiểu là chủ nhiệm khoa. Mà chủ nhiệm khoa phải là đảng viên. Vì thế mà tôi làm đơn xin vào Đảng, mặc dầu vào thời gian này tôi đã phần nào thấy được một số độc hại của CNML và một số sai lầm của Đảng, nhưng vẫn phải chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng như một điều tất yếu. Hơn nữa ở trong trường nhiều đảng viên trí thức là những người ưu tú, cùng sinh hoạt với những người đó cũng là việc nên làm. Kết quả tôi vào Đảng, làm chủ nhiệm khoa, có nhiều đóng góp tích cực cho đào tạo và nghiên cứu khoa học. Sau khi về hưu, với cương vị đảng viên tôi cũng đã có nhiều đóng góp tích cực cho địa phương. Tôi biết mục tiêu vào Đảng của nhiều trí thức cũng giống như tôi và con đường cũng khá gập ghềnh nên viết ra để trao đổi. Đó là thời gian trước đây. Đến bây giờ, sau khi ở trong Đảng 30 năm, tình hình đã khác nhiều. Càng ngày tôi càng thấy rõ tác hại của CNML. Để thực hiện ý tưởng phê phán nó được tốt hơn tôi thấy nên ra Đảng và tôi đã làm như thế. Nguyễn Đình Cống (Ba Sàm)
  21. Thế nào là “thoát Trung” ? Nếu là để thoát khỏi “ảnh hưởng” của Trung Quốc thì, theo tôi, không hẳn chỉ là các vấn đề thuộc về văn hóa, kinh tế hay “lời nguyền địa lý” như nhiều học giả VN đã và đang bàn luận. Thử lấy thí dụ Nhật Bản, Đài Loan và Đại Hàn. Văn hóa (nếu không nói là văn minh) của ba nước này, trên nhiều mặt của xã hội hiện nay vẫn thể hiện sâu đậm màu sắc của văn hóa Khổng giáo. Về chữ viết đã đành. Thử xem một vài phim tình cảm xã hội của Đại Hàn, Đài Loan hay Nhật sản xuất. Ta thấy sao mà quen thuộc quá. Nếu bỏ qua những đường nét, khung cảnh hiện đại của những thành phố tiên tiến trong một quốc gia phát triển, thì ta tưởng đó là phim xã hội VN. Khung cảnh trong gia đình của một người Đài Loan, Đại Hàn, thậm chí Nhật, đều giống nhau, như Việt Nam (nhứt là VNCH trước kia). Đó là mô hình của một xã hội ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh. Dĩ nhiên là văn hóa này đã giảm thiểu nồng độ cực đoan, đến từ việc du nhập văn hóa bao dung và tự do của Tây phương. Ta không còn thấy cảnh thân phận người phụ nữ bị bó rọ trong “tam tòng, tứ đức”, cũng không thấy người đàn ông với những tín điều cứng nhắc “tam cương, ngũ thường”… Câu hỏi đặt ra, nếp sống gia đình ở Nhật, ở Đài Loan, ở Hàn quốc, có tốt hơn nếp sống gia đình ở VN hay TQ hiện nay, ảnh hưởng chủ thuyết duy vật của Mác Lê Nin hay không ? Câu hỏi tiếp theo, là các nước Nhật, Hàn quốc, Đài Loan… về phương diện địa lý, cũng có “lời nguyền” về “địa chính trị” không khác lắm với Việt Nam. Vậy sao họ “cách biệt”, nếu không nói là “thoát và vượt Trung” hàng thế hệ về tiến bộ văn hóa, khoa học kỹ thuật ? Còn về vấn đề kinh tế, liên thuộc kinh tế giữa Trung Quốc với các nước Nhật, Hàn, và Đài Loan hết sức là gắn bó keo son. TQ đã, đang và sẽ mãi là đối tác quan trọng hàng đầu của ba nước này. TQ nhờ tư bản và kỹ thuật các nước này đầu tư nên mà kế hoạch “hiện đại hóa” thành công. Các nước này nhờ TQ mà kinh tế tăng trưởng đều đặng. Vậy họ có cần “thoát” lẫn nhau không ? Các nước trên, về phương diện chữ viết, cũng như VN trước thời Pháp thuộc, đến hôm nay cũng vẫn giữ nguyên tắc cơ bản chữ Hán. Nhưng VN, có lẽ vì muốn “khác người”, nhứt là phải khác (và vượt trội) VNCH, do đó có khuynh hướng xóa bỏ các từ Việt gốc Hán. Một số kinh nghiệm sau 1975 với các ngôn từ ngây ngô, như từ “xưởng đẻ” để thay thế cho “nhà hộ sinh”. Bệnh viện Từ Dũ ở Sài Gòn có lúc đổi tên là như vậy. Lại còn các từ như “máy bay lên thẳng”, “lính thủy đánh bộ”, “giặc lái”… Việc sử dụng từ gốc Hán không có gì phải mặc cảm. Người Nhật, người Hàn… xem ra còn lệ thuộc vào chữ Hán còn hơn VN. Bên Châu Âu cũng vậy, chữ viết các xứ này đều bắt nguồn từ Latin, Grec… Những từ khoa học các nước Âu Mỹ hầu hết đều có gốc Latin hay Grec. Các nước này đâu thấy ai lên tiếng than phiền là lệ thuộc, tỏ ý muốn “thoát Trung” hay “thoát Grec (hay Latin)” đâu ? Lệ thuộc hay không là do mình. Ta thấy một lượng lớn từ ngữ chuyên môn (học thuật hay khoa học) Hán Việt bắt nguồn từ Nhật, do các học giả Nhật phát minh ra. Chỉ số chất lượng về đời sống, về văn hóa, về kinh tế… trên mỗi con người của Nhật, Hàn, Đài Loan hơn xa Trung quốc. Trong khi thành quả các tiến bộ về văn hóa, khoa học, kỹ thuật… Trung Quốc cũng bị các nước Nhật, Hàn… đã bỏ xa hàng vài thập niên. Như thế, ta thấy việc ảnh hưởng văn hóa Hán (chữ viết) không hề ảnh hưởng lên việc phát triển quốc gia. Về kinh tế cũng vậy, sự liên thuộc về kinh tế giữa hai nước Nhật, Hàn và Đài loan với Trung Quốc không chừng còn quan trọng hơn quan hệ giữa TQ với Hoa Kỳ và UE cộng lại. Trong các quan hệ này, ta dùng từ “liên thuộc” chứ không phải “lệ thuộc”. Nếu chỉ tính từ thập niên 80, TQ luôn nhập siêu từ Hàn quốc và Nhật. TQ cần các mặt hàng có tính khoa học kỹ thuật cao của hai nước này để phát triển đất nước. Trong khi Nhật và Đại Hàn cũng cần đến TQ để phát triển kinh tế. Cho dầu Nhật và TQ có những mâu thuẫn sâu sắc về chủ quyền quần đảo Senkaku (Điếu Ngư), nhưng TQ chưa hề dám đe dọa dùng vũ khí kinh tế đối với Nhật. Như vậy, dựa trên hai yếu tố văn hóa và kinh tế để “thoát Trung”, (như các học giả VN đã và đang hô hào) rõ ràng Nhật và Đại Hàn đang có khuynh hướng ngược lại : “nhập Trung” thay vì “thoát Trung”. Nhưng quan hệ kinh tế hai bên Việt-Trung, số kim ngạch trao đổi hai bên cán cân luôn thặng dư về phía TQ. Việc thâm thủng này ngày mỗi tăng. Điều quan trọng là quan hệ kinh tế giữa VN và TQ, trong chừng mực, là quan hệ “thực dân – thuộc địa về kinh tế”. Nếu đọc lại các bản tuyên bố chung của hai bên được công bố gần đây, ta thấy VN đã nhượng cho TQ quá nhiều đặc quyền, đến đỗi các việc này có thể đe dọa nền độc lập của quốc gia. Không nói quá, mọi huyết mạch của kinh tế VN hiện nay đều do TQ kiểm soát. Điều này đến từ các quyết định chính trị chứ không phải là những lựa chọn bắt buộc. Tức là VN vẫn có thể thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế nếu lãnh đạo có can đảm về chính trị. Vì vậy, theo tôi, thoát Trung hay không là một vấn đề “chiến lược” chứ không hẵn là kinh tế hay văn hóa. Một lý do thường thấy nhiều người VN nại ra, ngại khi quay lưng lại với Trung quốc, là vấn đề “địa chiến lược”, nước xa không cứu được lửa gần. Ta thấy các nước như Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Phi… (nếu không nói Đài Loan) đều ở kế “vách” với TQ, nhưng họ đâu sợ TQ. Các nước này, phần lớn, là các nước dân chủ, thịnh vượng. Để xóa bỏ nỗi ám ảnh (chính đáng) “nước xa không cứu được lửa gần” của một số người VN hiện nay, ta cần nhắc lại một số điều cơ bản của các lý thuyết về địa chiến lược (mà lãnh đạo TQ bị ảnh hưởng). Theo tôi, lý thuyết “Địa Chiến lược – Không gian sinh tồn” của Friedrich Ratzel (xuất bản năm 1902) có ảnh hưởng sâu sắc lên các lớp lãnh đạo (then chốt) của TQ, làm thay đổi bộ mặt của nước này, đó là : Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Bảy định luật của thuyết này là : Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn. Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng như chủ thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện. Việc bành trướng của cường quốc được thực hiện qua phương cách “hấp thụ và tiêu hóa” các nước nhỏ. Đường biên giới quốc gia không xác định (biên giới linh động – frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng. Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ (bây giờ là biển) là mục tiêu chiếm hữu. Các quốc gia yếu kém ở kế cận là mục tiêu bành trướng. Sự bành trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc. Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các quốc gia. Bảy định luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay. Định luật 1 : Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ có một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung Quốc. Định luật 2 : Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những hành vi khẳng định chủ quyền của TQ ở biển Đông, hay lên tiếng tranh chấp với Nhật ở quần đảo Senkaku, cho thấy ý chí của nước này. Định luật 3 : Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực hiện ráo riết tại Tây Tạng. Định luật 5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu chinh phục Biển Đông (Hoàng Sa và Trường Sa) đồng thời dành lại quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Nhưng định luật này cần cập nhật thêm, vì chủ đích của việc chinh phục là vùng biển, qua hai mặt: chiếm hữu và xây dựng các đảo nhỏ ở HS và TS thành một “bức trường thành” nhằm mục đích phòng vệ lục địa, sau đó là tài nguyên. Định luật 6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi, hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung Quốc. TQ đã sử dụng nhuần nhuyễn “quyền lực mềm” để kiểm soát VN, qua các mặt: ý thức hệ chính trị, văn hóa và kinh tế. Ta thấy trên thực tế, đảng CSVN là một bộ phận của đảng CSTQ. Về văn hóa, phim ảnh, sách vở… của TQ thống lĩnh trên các chương trình truyền hình VN. Người VN thuộc sử TQ hơn cả người TQ. Còn về kinh tế, hàng hóa TQ tràn ngập thị trường. Hàng hóa TQ len lõi nhập lậu vào VN, khiến nền công kỹ nghệ tư nhân VN chết đứng. Ngoài ra, các công trình xây dựng ở VN hiện nay hầu hết đều do nhà thầu TQ phụ trách. Nhìn thành quả đường xe điện ở Hà Nội, với đường rầy uống lượn nhấp nhô như “rồng”, ta thấy ngay sự buông thả, vô trách nhiệm của lãnh đạo VN. Đó cũng là cách áp dụng uyển chuyển của lý thuyết “không gian sinh tồn”, biến VN thành một chư hầu kinh tế. Từ định luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại). Định luật 7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà là việc tranh dành vùng biển, tranh dành thị trường, vùng ảnh hưởng. Ngoài ra là những xung đột giữa các nền văn minh (Thiên chúa – Hồi giáo) như hiện nay (theo thuyết của Samuel P. Huntington). Theo tôi, quan trọng nhất trong các định luật trên là định luật 6. “Thoát Trung” là thoát lệ thuộc chính trị, thoát u mê ý thức hệ, thoát mù quáng tình đồng chí anh em, thoát cám dỗ “4 tốt 16 chữ vàng”… Thoát ra được hay không là do lãnh đạo VN có bản lĩnh chính trị, lòng yêu nước, tính can đảm và ý chí dám hy sinh (quyền lợi bản thân và đảng phái) hay không. Ta thấy định luật 6 chứng nghiệm cho các nước Nam Mỹ. Do gần với nước Mỹ, vì lý do “sinh tồn” của nước Mỹ, các nước này phải là là những nước nghèo (hay chỉ mới phát triển). (Ngoại trừ Canada, vì có cùng văn hóa và lý tưởng với Mỹ). Trong khi những nước Nhật, Đại Hàn, Đài loan… là những nước kế cận TQ, mà TQ là địch thủ tiềm tàng của Mỹ, do đó bằng mọi cách Mỹ phải giúp các nước này để họ luôn giàu và mạnh hơn TQ (để không ngả về TQ). Điều này cũng đúng cho các nước Tây Âu trong thời chiến tranh lạnh, để các nước này có khả năng chống lại Liên Xô. Vì thế, ở kế cận TQ không hẳn là điều xấu. Cũng như ở kế cận nước Mỹ chưa chắc là điều tốt. Nếu Nhật, Đại Hàn, Đài Loan… do nhờ ở kế cận TQ mà được Mỹ giúp phát triển đất nước giàu có, hùng mạnh, thì VN cũng có thể trở nên giàu và mạnh như vậy. Thoát Trung do đó là vấn đề thuộc phạm vi lựa chọn: lựa chọn đồng minh, lựa chọn “ý thức hệ chính trị”. Đó cũng là tầm nhìn “chiến lược” của lãnh đạo, chứ không phải là văn hóa hay kinh tế. Trương Nhân Tuấn (FB Trương Nhân Tuấn)
  22. Trong kỷ nguyên của cải cách, tăng trưởng kinh tế chi phối tất cả. Nhưng giờ đây, sự hồi sinh của những tín điều đối chọi nhau đã chia rẽ xã hội Trung Hoa. Hình minh họa Với phần lớn người Trung Quốc, thập niên 1990 chứng kiến sự lên ngôi của chủ nghĩa thực dụng vật chất. Phát triển kinh tế là mối quan tâm chính trị - xã hội quan trọng nhất, trong khi những hệ tư tưởng nhà nước đa dạng vốn là nhân tố định hướng chính sách trong những thập niên đầu tiên của nền Cộng hoà Nhân dân lại lui dần vào hậu trường. Những cuộc đấu tranh ý thức hệ khốc liệt từng đánh dấu sự kết thúc của thập niên 1970 cũng như thập niên 1980 đã khiến dân chúng kiệt quệ, khiến họ chỉ còn háo hức chú tâm vào những cơ hội kinh tế mà trước đấy họ chưa từng biết đến. Giờ đây, xu thế lại thay đổi. Xã hội Trung Hoa rõ ràng là đang tái khám phá, hay ít nhất là tái xếp đặt thứ tự ưu tiên, những khát vọng về đạo đức và ý thức hệ. Vài năm qua, các lực lượng ý thức hệ cũng như sự chia rẽ ý thức hệ đã quay trở lại vị trí trung tâm trong đời sống chính trị và xã hội ở Trung Quốc, và có nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy tình trạng căng thẳng về ý thức hệ trong giới tinh hoa Trung Quốc hiện đang cao hơn so với bất kỳ thời điểm nào kể từ sau các cuộc biểu tình năm 1989. Hình ảnh về một nước Trung Hoa “hậu ý thức hệ” (post-ideological) đang trở nên ngày một lỗi thời. Dù vậy, dường như khá ít nhà quan sát hay nhà hoạch định chính sách lại suy xét khả năng theo đó các nhóm tinh hoa ở Trung Quốc là những tạo vật ý thức hệ, hoặc thậm chí là họ có thể đang ứng phó với một công chúng nhuốm màu ý thức hệ. Đây là một sự thay đổi đáng chú ý với những liên đới sâu sắc dành cho công tác hoạch định chính sách. Chỉ một hay hai thập niên trước, nhiều nhà bình luận còn cảm thấy khó khăn khi phải thừa nhận rằng các chính trị gia Trung Quốc – hoặc thậm chí là những người Trung Hoa có học vấn – hoàn toàn không phải là những người theo tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đầu thập niên 2000, ý tưởng theo đó các nhóm tinh hoa ở Trung Quốc không còn tin chủ nghĩa cộng sản vẫn là một ý tưởng mới mẻ, đôi khi dẫn đến thái độ hoài nghi và phản ứng trái ngược. Để so sánh, bất kỳ ai hiện nay khăng khăng cho rằng lý tưởng cộng sản vẫn chi phối quá trình hoạch định chính sách của Trung Quốc đều có nguy cơ huỷ hoại danh tiếng của mình như một người am hiểu Trung Quốc nghiêm túc. Ý tưởng về một Trung Quốc hậu ý thức hệ ra đời như thế nào? Cách diễn giải khoan dung – và có lẽ đúng – về sự thay đổi này là nó chỉ đơn thuần phản ảnh một sự thay đổi chung về quan điểm trong xã hội Trung Hoa. Cuộc đàm luận về chính trị và xã hội ở Trung Quốc đã chuyển hướng từ những luận điểm mang màu sắc ý thức hệ sang thứ chủ nghĩa thực dụng mềm dẻo mà các cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân thường cổ vũ. Ở đây vẫn còn một cách diễn giải ít khoan dung hơn: sự trỗi dậy về kinh tế của Trung Quốc, đặc biệt là sự tăng trưởng bền vững của nó trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đã tạo ra một ý thức về tính dễ tổn thương và, do đó, một tâm tính hoang mang trong nhiều nhà phân tích phương Tây, những người vội đi đến – và vẫn tiếp tục tin vào – cái kết luận rằng các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc là những kẻ tối đa hoá tính hiệu dụng (utility) một cách tàn nhẫn và hiệu quả, những kẻ chuyên kiếm chác từ cái thế giới phát triển vốn mềm mại hơn, duy tâm hơn và phải chịu những ràng buộc dân chủ. Dù với lý do gì đi nữa thì cái hình ảnh rập khuôn về thứ chủ nghĩa thực dụng Trung Quốc có lẽ cũng đã hết thời hạn sử dụng. Ở Trung Quốc ngày nay, những dấu hiệu về sự hồi sinh ý thức hệ xuất hiện khắp nơi. Rõ ràng nhất là hiện tượng một số biểu tượng, mà từ lâu người ta nghĩ là đã chết, đã hồi sinh một cách nổi bật, và trong một số trường hợp còn rất thành công, qua những phát ngôn chính trị trên bình diện quốc gia. Đầu tiên là việc khôi phục lại hình ảnh Chủ tịch Mao Trạch Đông như là thành tố cốt lõi của câu chuyện huyền thoại về sự ra đời của Đảng CSTQ cùng tính chính danh lịch sử của nó. Như một số học giả và nhà bình luận đã ghi nhận, trong vài bài phát biểu gần đây, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã coi Mao không chỉ là người cha sáng lập Đảng mà còn là một biểu tượng về cam kết của Đảng đối với chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân tuý. Điều này đánh dấu một sự chuyển hướng quan trọng từ lối đối xử xem nhẹ và gần như miễn cưỡng mà dường như những người tiền nhiệm của Tập, đặc biệt là Hồ Cẩm Đào, từng dành cho Mao. Thật đáng tò mò, trong khi những tín hiệu ngôn từ của Tập được bình luận ngay lập tức thì những hàm ý chính sách tiềm tàng của chúng lại phần lớn không được nghiên cứu, nếu không muốn nói là bị phủi bỏ ngay như thể chúng chẳng có gì quan trọng cả. Mao không phải là nhân vật duy nhất được phục hồi về mặt ý thức hệ. Khổng Tử cũng đã trở thành một nhân vật ngày càng nổi bật trong những phát ngôn chính trị ở Trung Quốc. Và các nhà lãnh đạo Đảng thì thường xuyên trích dẫn các triết gia cổ đại, như Mạnh Tử, Trang Tử hay Hàn Phi. Bản thân Tập thường lập luận rằng, “để giải quyết những vấn đề của mình… [Trung Quốc cần] khai thác triệt để kho tàng minh triết vĩ đại mà đất nước Trung Hoa đã tích luỹ được trong suốt 5.000 năm qua”. Sự ủng hộ của nhà nước đối với các dự án như Học viện Khổng Tử mới ở Quý Dương (tỉnh lỵ Quý Châu, khai trương từ năm 2013) khiến những phát ngôn chính trị như thế hàm chứa một mức độ nghiêm túc nhất định và điều này đã truyền cảm hứng cho các nhà hoạt động tân Khổng giáo. Tuy nhiên, những nỗ lực nhằm truyền sức sống mới cho tư tưởng Trung Hoa cổ đại cũng khiến những bộ phận khác, mang xu hướng tự do chủ nghĩa nhiều hơn, trong cộng đồng mạng ở Trung Quốc lên tiếng báo động và bày tỏ sự khinh thị. Họ có xu hướng coi các quy tắc đạo đức xã hội của Nho giáo là lạc hậu và hẹp hòi. Người ta dễ dàng, và có lẽ là thèm muốn, phủi bỏ những sáng kiến này như thể đó là sự tuyên truyền ý thức hệ đầy toan tính do một chính thể độc tài vốn đang phải đối mặt với tình trạng căng thẳng về kinh tế, xã hội và chính trị chưa có tiền lệ tiến hành. Chắc chắn ở đây có một sự thật nào đó; chỉ có điều là nó lại quá ư đơn giản. Thực ra, người ta cũng có thể lập luận một cách thuyết phục như thế rằng, Đảng CSTQ đã đóng một vai trò thụ động, chứ không phải chủ động: các chiến dịch ý thức hệ nhằm hồi sinh những nhân vật như Mao và Khổng phản ánh những trào lưu tư duy trí tuệ và văn hoá đã nhanh chóng giành được ảnh hưởng trong tầng lớp người Trung Hoa có học vấn cao trong năm đến bảy năm qua. Xét chiều sâu và động năng của những trào lưu này, Đảng hoàn toàn có thể sẽ tìm cách bắt kịp. Bản thân Tập dường như cũng đã thừa nhận như thế qua bài phát biểu nổi tiếng ngày 19/8/2013, trong đó ông ta cho rằng Đảng đang đối mặt với một làn sóng thách thức nghiêm trọng về ý thức hệ, và cần phải phản ứng mạnh mẽ hơn. Hai diễn biến quan trọng nhất trong địa hạt tư duy trí tuệ ở Trung Quốc từ cuối thập niên 1990 có lẽ là sự trỗi dậy của khuynh hướng Tân Tả (“New Left”) hùng mạnh và sự phục hồi của một trào lưu tân Khổng giáo tuy thiếu tổ chức song ngày càng giành được ảnh hưởng. Khuynh hướng Tân Tả kết hợp những cảm tính dân tộc chủ nghĩa – như một bài xã luận tháng 1/2010 trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo tuyên bố, “chúng ta không muốn trở thành một thuộc địa của lối tư duy trí tuệ phương Tây” – cùng sự bất mãn rộng khắp với tình trạng bất bình đẳng kinh tế để đi đến lời kêu gọi mạnh mẽ về một cuộc “tái thiết chủ nghĩa xã hội”, và điều này sẽ dẫn tới sự phục hồi của nhiều chính sách kinh tế kế hoạch hoá thập niên 1980 cũng như việc tăng cường kiểm soát ý thức hệ đối với Internet và truyền thông. Nếu tìm hiểu thế giới tư duy trí tuệ Trung Quốc hiện nay thì những nhân vật ảnh hưởng nhất – và là những người có quan hệ gần gũi nhất với sự lãnh đạo của Đảng – thường là những nhân vật tả khuynh. Trong số này có hai nhà kinh tế học nổi bật là Wang Shaoguang (Vương Thiệu Quang) và Justin Yifu Lin, nhà khoa học chính trị Cui Zhiyuan (Thôi Chí Nguyên), và triết gia Liu Xiaofeng (Lưu Hiểu Phong). Trái lại, các nhân vật tân Khổng giáo nhìn chung ủng hộ cả sự hồi sinh của các quy tắc đạo đức Nho giáo, chẳng hạn như sự hiếu thảo, lẫn việc phục hồi một số thiết chế chính trị truyền thống, đặc biệt là chế độ khoa cử. Mặc dù họ có xu hướng kém chính thống, song chính tính chất dễ khơi mào của thuật ngữ “Khổng giáo” trong cuộc đàm luận chính trị và trí tuệ ở Trung Quốc lại đem đến cho họ một tần suất xuất hiện khác thường trên các phương tiện truyền thông. Từ cuối thập niên 1990, những lời kêu gọi nhằm hồi sinh Khổng giáo dần dần trở nên mạnh mẽ và phổ biến; chúng tiến triển từ một trào lưu ngoài lề chịu nhiều sự chế nhạo thành một xu thế dù vẫn bị chế nhạo nhưng chắc chắn đã trở nên mạnh mẽ trên bình diện quốc gia, đặc biệt là ở cấp giáo dục tiểu học. Ví dụ, Jiang Qing (Tưởng Khánh), một nhà lãnh đạo buổi đầu của trào lưu và hiện đang điều hành Viện Nho học Dương Minh (Yangming Confucian Academy) nổi tiếng, đã trở thành một nhân vật mà gần như ai ai trong giới trí thức cũng biết đến. Cả hai diễn biến nêu trên đều có gốc rễ từ chủ nghĩa dân tộc bài phương Tây. Từ đầu thập niên 1980 đến thập niên 2000, dân chủ, pháp trị và cải cách thị trường tự do là thứ ngôn ngữ chính trị chung không chỉ của phần lớn các nhà trí thức Trung Quốc mà còn của phần lớn giới lãnh đạo doanh nghiệp, và thậm chí cả một số quan chức, những người chí ít cũng bày tỏ sự ủng hộ bằng lời nói – và có lẽ nhiều hơn thế – dành cho những lý tưởng cháy bỏng đó. Trong giai đoạn này, các nhóm tinh hoa ở Trung Quốc dường như cùng chia sẻ sự đồng thuận rằng Trung Quốc cần Tây hoá. Cả Tân Tả lẫn tân Khổng giáo chủ yếu đều là những phản ứng tư duy trí tuệ trước sự đồng thuận đó, được thúc đẩy một phần bởi sự bất tương thích mà người ta cảm nhận được giữa tư tưởng phương Tây và thực tiễn kinh tế - xã hội - chính trị của Trung Quốc, một phần bởi sự thất vọng trước thái độ thù địch và sự phân biệt đối xử về ý thức hệ mà phương Tây dành cho Trung Quốc, và một phần bởi những tham vọng dân tộc chủ nghĩa vốn xuất hiện một cách tự nhiên cùng với sự cất cánh về kinh tế. Gần đây hơn, các trào lưu này đã cho thấy những dấu hiệu của sự hội tụ. Tân Khổng giáo dường như đang gắn chặt với Tân Tả, và không phải là thiếu sự tương hỗ từ giới Tân Tả. Một số học giả nổi bật, đặc biệt là Gang Yang từ Đại học Tôn Dật Tiên, hiện tự coi mình vừa tả khuynh vừa theo Khổng giáo. Yếu tố then chốt của cái “nhân dạng” chung đó chính là thứ chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ mà cả hai phái ý thức hệ cùng chia sẻ, vốn cho phép các học giả này lập luận rằng các nguồn lực từ “văn hoá truyền thống” cần đóng một vai trò nổi bật trong cuộc thập tự chinh chống lại chủ nghĩa tự do phương Tây – nếu không phải như một thành tố cần thiết của cái “phương diện quốc gia” thì ít nhất cũng là một lựa chọn về mặt ý thức hệ thay cho sự khuynh loát của trí tuệ phương Tây. Những nghiên cứu thống kê gần đây cho thấy các xu thế này vượt xa ra ngoài những ranh giới được che chắn của các trường đại học hàng đầu cũng như các trung tâm quyền lực ở Trung Quốc. Một bản phúc trình thường được trích dẫn của các nhà nghiên cứu Harvard và MIT năm 2015, chẳng hạn, chỉ ra rằng người sử dụng Internet ở Trung Quốc chủ yếu tập trung xung quanh hai thái cực: một cực “tả khuynh - Khổng giáo” vốn chủ trương hình thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa rộng khắp, hạn chế các quyền dân sự, áp dụng chính sách đối ngoại hung hăng, và phục hồi văn hoá truyền thống; và một cực “tự do phương Tây” – hay “hữu khuynh” – ủng hộ các nguyên lý thị trường tự do, chế độ dân chủ lập hiến, các quyền tự do dân sự, hợp tác quốc tế và sự bài xích văn hoá truyền thống. Ngoài ra, mức độ đồng nhất cao trong hai phái này còn cho thấy nhận thức và cam kết về ý thức hệ đã khá sâu sắc, và ngày càng sâu sắc, ai cũng như ai. Hiện nay, những xung đột tự do chủ nghĩa - tả khuynh dường như đang tạo sắc thái và định hình việc hấp thụ thông tin của cộng đồng mạng đối với bất kỳ tin tức phổ biến nào, từ những chủ đề địa chính trị quan trọng – chẳng hạn như chính sách ngoại giao quyết đoán mới của Trung Quốc ở Biển Đông – cho đến những vụ lùm xùm trong công chúng, như vụ xung đột hành chính gần đây tại trường Đại học Tôn Dật Tiên, trong đó một giảng viên trẻ tố cáo Gan Yang trù dập anh ta và hành hung ông. Dĩ nhiên là ở đây có những cách giải thích khả dĩ khác về việc tại sao các trào lưu dân tộc chủ nghĩa này lại giành được ảnh hưởng. Một số người có thể lập luận rằng chúng đã lợi dụng những vấn đề kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng của Trung Quốc trong thập niên qua, đặc biệt là tình trạng bất bình đẳng gia tăng nhanh chóng. Một cách diễn giải đồng cảm hơn có thể là, chúng thực sự đem đến những giải pháp tiềm tàng cho một số những vấn đề này – bằng cách thúc đẩy, chẳng hạn, một tập hợp quy tắc đạo đức xã hội định hướng nhóm (group-oriented) nhằm giúp giảm bớt sự thiếu hụt rõ ràng về độ tin cậy xã hội của nền kinh tế đô thị. Số khác có thể lập luận rằng chúng thể hiện hình thức tự phản ảnh và âu lo về mặt tư duy trí tuệ (intellectual self-reflection & anxiety) vốn xuất hiện tự nhiên sau khi xã hội đạt tới một mức độ cơ bản về thịnh vượng kinh tế, và do đó chúng là một hình thức của chủ nghĩa dân tộc tầng lớp trung lưu. Bất kể căn nguyên của nó là gì, bức tranh ý thức hệ hiện hành cũng có thể đem đến những hệ luỵ nghiêm trọng cho quá trình hoạch định chính sách của Trung Quốc: sự hồi sinh ý thức hệ làm biến đổi rất mạnh môi trường xã hội và chính trị mà ở đó Đảng và Nhà nước hoạt động. Nguồn gốc của sự chính danh trong xã hội duy vật chủ nghĩa thực dụng rất khác so với trong một xã hội mang màu sắc và bị phân cực bởi ý thức hệ. Trong khi tăng trưởng kinh tế năng động là chìa khoá để giành được sự ủng hộ của dân chúng ở hình thái xã hội thứ nhất thì điều đó lại có thể không đủ, và có lẽ còn không cần thiết, trong hình thái xã hội thứ hai. Ở thời điểm hiện tại, người ta rất không chắc chắn là bên nào – các nhà tự do chủ nghĩa, các nhà tả khuynh, hay các nhà bảo thủ văn hoá – rốt cuộc sẽ giành được thế thượng phong trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ như thế. Nếu một phái lên ngôi, chính phủ có thể nhận thấy mình bị buộc phải (hay ít nhất là được thúc đẩy mạnh mẽ để) tìm kiếm sự chính danh chính trị - xã hội thông qua các chính sách tái phân phối, cải cách các quyền dân sự, hoặc có thể là sự chuyển hướng triệt để sang một ý niệm mới về những giá trị văn hoá truyền thống. Điều này có thể hoặc là hoạ hoặc là phúc: nó có thể đẩy đảng và nhà nước vào những vị thế ý thức hệ không lấy gì làm thoải mái, nhưng nó cũng có thể đem đến những nguồn ủng hộ xã hội trong giai đoạn có biến động về kinh tế hay địa chính trị. Xin lấy ví dụ, chẳng hạn, phản ứng của Đảng trước phong trào Chiếm Trung Tâm năm 2014 ở Hồng Kông. Trong giai đoạn đó, một phong trào chủ yếu do sinh viên lãnh đạo đã kêu gọi tổ chức bầu cử dân chủ và độc lập chính trị nhiều hơn với Bắc Kinh. Bất chấp một số đề xuất ban đầu rằng chính phủ cần bày tỏ thái độ hoà giải chừng mực với người biểu tình vì nhiều lý do thực dụng – nhằm hạn chế tối thiểu việc gián đoạn hoạt động tài chính, sự mất uy tín trong cộng đồng quốc tế, và tổn hại trong quan hệ giữa Trung Quốc với Đài Loan – người ta sớm phát hiện ra rằng Đảng lại quan ngại về phản ứng ở trong nước đối với chiến lược của họ ở Hồng Kông nhiều hơn rất nhiều so với phản ứng của quốc tế. Tuy nhiên, phản ứng trong nước đó đôi khi lại gần như nhuốm màu dân tộc chủ nghĩa hiếu chiến. Bị khích động bởi một số ít vụ phân biệt đối xử theo lối bài đại lục của cư dân Hồng Kông, nhiều, có khi là phần lớn, cư dân đại lục có học vấn cao lại nhiệt thành ủng hộ một chính sách cứng rắn chống người biểu tình. Điều này cho phép Đảng áp dụng một lập trường phi hoà giải, song đồng thời cũng giới hạn sự lựa chọn của Đảng một cách nghiêm trọng, đưa họ đi đến một lập trường thô bạo hơn so với mức mà một số nhà hoạch định chính sách cảm thấy thoải mái. Giống như bất kỳ hệ tư tưởng chính trị đặc thù nào, chủ nghĩa dân tộc cũng là một con dao hai lưỡi. Trong ngắn hạn, và đặc biệt là trong những giai đoạn suy thoái kinh tế, ban lãnh đạo Đảng có thể thấy thuận tiện khi sử dụng trào lưu tả khuynh hoặc tân Khổng giáo để giành được sự ủng hộ của công chúng – mà những ngôn từ chính trị gần đây cho thấy Đảng đang nỗ lực thực hiện điều đó. Tuy nhiên, điều này lại không chắc chắn là một giải pháp dài hạn dễ chịu. Người ta chỉ cần nhìn lại sự thăng trầm ngoạn mục của Bạc Hy Lai để dẫn ra một ví dụ quan trọng mà ban lãnh đạo Đảng đã tỏ ra rất khó chịu với sự cuồng tín ý thức hệ của một số trí thức tự nhận là theo chủ nghĩa Mao. Các hệ tư tưởng tả khuynh không phải lúc nào cũng là đồng minh đáng tin cậy hơn các hệ tư tưởng tự do chủ nghĩa. Rốt cuộc, liệu bản thân các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc có quan tâm sâu sắc đến ý thức hệ, hay ít nhất là ngày càng quan tâm sâu sắc hay không? Đúng là những quan điểm gần đây của Tập về Mao, về truyền thống văn hoá Trung Quốc và về nhu cầu thay đổi văn hoá trong giới chức chính quyền tỏ ra rất nhất quán với quan điểm của một nhà kỹ trị thực dụng. Tuy nhiên, chúng cũng rất nhất quán với cách ứng xử của một nhà bảo thủ XHCN và văn hoá đích thực, người theo đuổi các mục tiêu ý thức hệ của mình một cách chừng mực và thận trọng. Bất chấp những gì người ta nghĩ về ban lãnh đạo hiện hành, hy vọng là cái ý niệm của phương Tây theo đó nền chính trị Trung Quốc thuần tuý bắt nguồn từ chủ nghĩa thực dụng sẽ sớm biến mất. Taisu Zhang - Foreign Policy Lê Anh Hùng dịch (Việt Nam Thời Báo)
  23. Blogger Nguyễn Hữu Vinh ngồi tù gần hai năm mà cho đến nay không có phiên toà xét xử. Ông là một trong nhiều người bị bách hại. "Chồng tôi muốn nhất thiết phải được đưa ra tòa để trường hợp của ông được xét xử công khai", bà Lê Thị Minh Hà nói khi đến thăm toà soạn taz. Bà là vợ của blogger Nguyễn Hữu Vinh, người bị giam giữ đã gần hai năm nay tại Hà Nội, thủ đô Việt Nam. "Anh ấy tin chắc rằng trong trường hợp của anh chính quyền đã phạm rất nhiều sai lầm. Bây giờ cơ quan an ninh và tư pháp bị kẹt trong ngõ cụt tiến thoái lưỡng nan. Một số người ngờ rằng nếu anhấy không sớm ra tòa án thì có thể nằm tù còn lâu". Phiên toà xử ông Vinh, 59 tuổi, nổi tiếng qua tên blogger Anh Ba Sàm tại Việt Nam, được dự trù vào ngày 19 tháng Giêng. Nhưng thời điểm này lại ngay trước Đại hội XII của đảng Cộng sản và có thể làm xấu đại hội do đó phiên tòa đã bị hoãn lại vô thời hạn. Vinh bị bắt cùng với người cộng sự Nguyễn Thị Minh Thủy vào ngày 05 tháng Năm 2014. Ba ngày trước đó, Trung Quốc đã kéo vào Biển Đông một giàn khoan ở một khu vực mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền. Vinh viết blog về các tranh chấp với Trung Quốc. Trong đề tài này ở Việt Nam luôn có biểu tình chống Trung Quốc. Sau đó giới lãnh đạo đảng thường phản ứng bất nhất. Tháng 5 năm 2014 họ bắt giữ Vinh người bất đồng chính kiến. Ngoài ra thì những người biểu tình không hề hấn gì cho đến khi nhà máy Trung Quốc hoặc nhà máy bị lầm là của Trung quốc bị đốt và một số người thiệt mạng. "Lúc đầu, tôi nghĩ rằng chồng tôi bị bắt vì blog của mình", bà Hà nói. Vinh đã lập blog Anhbasam năm 2007 để thúc đẩy cuộc tranh luận mang tính phê bình. Hàng ngày ông đăng bài viết của truyền thông nhà nước cũng như những bài của truyền thông nước ngoài hay các bài blog của những người lưu vong và các nhà hoạt động. Từ năm 2013, trang mạng của ông được vận hành ở nước ngoài để khó bị Hà Nội truy kích hơn. Càng ngày càng nhiều người phải đi lưu vong Nhiều lần trang web đã bị thâm nhập, thủ phạm dường như là người của chế độ. "Khi chính quyền nhận ra trang Anh Ba Sàm vẫn tiếp tục hoạt động sau khi anh bị bắt, họ cáo buộc chồng tôi điều hành hai trang mạng bất hợp pháp khác", bà Hà nói. Các báo cáo của họ kết thúc với việc Vinh bị bắt giữ. Nhà chức trách buộc tội blogger nổi tiếng này "lợi dụng các quyền tự do dân chủ" theo Điều 258 Luật Hình sự Việt Nam. Đây là một biện pháp phổ biến để khóa miệng các blogger chỉ trích chính quyền. Theo Phóng viên Không Biên giới hiện nay ở Việt Nam 14 blogger bị cầm tù. Gần đây nhiều blogger bị "kẻ lạ" hành hung. Và càng ngày càng thêm blogger trực tiếp đi lưu vong sau khi chấp hành án của họ. Trong khoảng 200 tù nhân chính trị tại Việt Nam blogger là nhóm lớn nhất. Ngay cả các nhà hoạt động tôn giáo đã bị hậu quả nghiêm trọng. Do đó hồi tháng Giêng tổ chức Phóng viên Không Biên giới đã cùng tổ chức từ thiện Thiên chúa giáo Missio phát động chiến dịch đòi tự do cho linh mục Công giáo Nguyễn Văn Lý. Ông đã đưa ra một cơ sở trực tuyến cho dân chủ. "Hoạt động cho các Kitô hữu bị áp bức và thiểu số tôn giáo khác cũng luôn luôn có nghĩa là dấn thân cho tự do thông tin - và ngược lại", Phóng viên Không Biên giới bầy tỏ trên trang mạng của mình. Trong bảng xếp hạng Tự do Báo chí của họ, Việt Nam dứng thứ 175 trên 180 quốc gia. Theo vợ ông, Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh bị cáo buộc chống lại nhân dân Việt Nam, cụ thể trong 24 bài viết. "Nhưng đó không phải là bài của anh ấy", bà nói. Mãi tám tháng sau khi Vinh bị bắt bà Hà mới được thăm lần đầu tiên, đến nay chỉ có năm lần. "Trong lần gặp cuối cùng hồi tháng Mười, anh ấy nói với tôi là bị bệnh, chắc là ngộ độc máu. Nhưng anh ấy không được điều trị". Quá khứ làm công an Là đảng viên đảng Cộng sản cũng như cựu sĩ quan an ninh Việt Nam, Vinh biết những gì có thể xẩy đến. Nhưng anh tin vào gốc gác có tiếng và những mối liên hệ với bộ máy chế độ. Cha của Vinh từng là bộ trưởng, thành viên Trung ương đảng và đại sứ tại Liên Xô. Vinh được huấn luyện tại Đại học An ninh, cùng trường với bà Hà. Là một sĩ quan của an ninh quốc gia ở dịch vụ trong và ngoài nước, ông có thể truy cập những thông tin thường bị kiểm duyệt. Chính điều này làm cho ông xét lại. "Chồng tôi làm việc cho Cục Công an đến năm 2000. Ở đó anh khám phá ra những việc mờ ám bất hợp pháp. Khi anh tố cáo bộ trưởng, anh bị thuyên chuyển", bà Hà nói. Sau đó, Vinh mở công ty thám tử tư đầu tiên ở Việt Nam. Năm 2005, ông bắt đầu viết blog. Thoạt tiên, giới blogger và những người bất đồng chính kiến không mấy tin Vinh vì gốc gác và quá khứ công an của ông: các bài viết của ông nổi bật qua nhiều thông tin nội bộ, thêm vào đó chính quyền để yên cho ông. "Hầu như tất cả các cán bộ đối phó với trường hợp của chồng tôi đều từng là bạn của tôi hay của anh ấy" bà Hà nói. "Chúng tôi đã cùng học với họ. Ngày nay họ là tướng. Một người bạn cũ ra lệnh bắt giam anh ấy thì bây giờ ngồi trong Bộ Chính trị và chắc nay mai sẽ làm bộ trưởng. Nay ông ta gọi chồng tôi là phản động. Nhưng anh ấy là một nhà báo muốn dân chủ hóa xã hội bằng cách thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình". Nguyên bản tiếng Đức: Vom Stasioffizier zum Staatskritiker, Sven Hansen, nhật báo Sven Hansen (taz) 01/03/2016 Bản dịch: Nguyễn Trọng Toàn (Diễn Đàn Việt Nam 21)
  24. Tôi đang có việc ở Hà Lan. Vậy, hôm qua, sau khi họp xong ở một Đại Học tại đây, tôi đã phải về khách sạn nghỉ chút trước một buổi họp nữa. Vì chưa biết đường phố ở nơi này nên phải tìm người để nhờ chỉ đường cho. Người đâu tiên tôi thấy là bạn trong ảnh này. Ảnh này chụp vài phút sao gặp nhau. Sau chia sẻ? Nói chuyện mấy giây thì rõ rằng bạn là một người mới nhập cư, và khi tôi đã hỏi bạn này từ đâu đến thì câu trả lời (dù đã đoán) cũng làm cho tôi cảm động nặng: Syria. Thấy quá là cảm động muốn bắt tay ngay với bạn này. Tôi hỏi, vậy, “gia đình của bạn ra sao, mọi điều ok không?” Bạn ấy bảo vợ và ba con gái đang ở Thổ nhĩ kỳ, và riêng bạn ấy đã tới được Hà Lan. Xong, tôi chia sẻ với bạn ấy sự quan tâm và hối tiếc với những gì đang diễn ra ở đất nước của bạn. Thực sự là thảm hoạ vô cùng lớn… Vì bạn này cũng không chắc là phải đi về hướng nào, nhưng vì ga xe lửa cũng gần KS của tôi, nên chúng tôi quyết định đi cung nhau. Trên đường đi bộ, chúng tôi dừng lại ở trên một cây cầu, nhờ một người Hà Lan hãy chụp giúp bức ảnh này. Sau đó tiếp tục. Vừa đi bộ vừa chia sẻ về gia đình, con cái, v.v. Bạn bảo là ở bên Syria đã là người lao động kỹ năng về điện tử, nhưng sau này chắc khó có thể tìm việc làm tương tự Tiếng Anh của bạn này không tốt lắm.. nên chỉ cố gắng mà thôi. Chia tay cũng thấy cảm động chút vì không biết nói gì khác là As-salamu alaykum. (Dịch sang tiếng Anh là “May peace be with you.”) Trong hoàn cảnh này những từ này là toàn phù hợp. JL (Blog Xin Lỗi Ông)
  25. Matthew Pennekamp đã đặt ra câu hỏi liệu trục xoay về phía Mỹ của Việt nam có đi đến hồi kết thúc trong thời điểm chuyển giao quyền lực ở Việt nam trên tờ National Interest. Matthew Pennekamp cho rằng trong hai thập kỷ qua chính quyền Việt nam đã có những bước tiến đáng kể để tiến gần đến với Washington hơn trước sự đe dọa của Trung quốc như cuộc gặp gỡ đáng nhớ của Tướng Giáp với Robert McNamara năm 1997, hay việc tập trận hải quân hai năm trước cho dến việc phê chuẩn Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, định hướng địa chính của Việt nam cũng đã khá rõ ràng. Tuy nhiên, cuộc chiến quyền lực giữa ông Trọng và ông Dũng trong đầu năm nay tại Đại Hội Đảng 12 đã có thể đã làm tổn hại đến tình trạng này. Ông Dũng người tham gia kháng chiến chống Mỹ từ năm 14 tuổi, đã đưa nền kinh tế Việt nam đạt được mức tăng trưởng 7% một năm, tham gia vào WTO năm 2006 đồng thời cũng đã đưa mái vòm vàng McDonald – một biểu tượng về sự xâm nhập chủ nghĩa tư bản – cập đến bến bờ Việt nam. Chưa đầy một năm sau khi có bài phát biểu lên án tội ác của Đế quốc Mỹ nhân kỷ niệm 40 năm giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước; mới đây tại hội nghị thượng đỉnh Sunnylands ông Dũng đã lên tiếng yêu cầu tổng thống Obama rằng “Hoa Kỳ cần có tiếng nói mạnh mẽ hơn và hành động thiết thực hơn và hiệu quả hơn” đối với vấn đề Biển Đông. Ông Trọng, người chiến thắng, một nhà nghiên cứu Chủ nghĩa Mác,người đứng đầu Hội đồng Lý luận của Đảng lại thận trọng với sự thay đổi ở nhịp độ nhanh. Lý do chính là vì sợ phải trả giá bằng chính Đảng Cộng Sản chính thống. Một nhà bình luận đã cho rằng “không phải ông ra sợ cải cách, nhưng vì là người đứng đầu đảng cộng sản, ông ta sẽ ưu tiên duy trì sự tồn tại của Đảng. Nếu cải cách quá nhanh và trên diện rộng sẽ gây ra sự bất ổn cho đảng.” Dù ông Trọng có nhận thức được về sự trỗi dậy của Trung Quốc, ông Trọng luôn can thiệp vào chính sách đối ngoại của Việt nam mỗi khi ông ta cảm thấy cán cân đối ngoại này có vẻ nghiêng về phía Hoa Kỳ hơi nhiều. Trước khi chính quyền Việt nam chính thức công bố về chuyến công du của Tổng thống Obama đến Việt nam vào tháng 5, ông Trọng đã nhanh chóng cử đặc phái viên Tổng Bí Thư Hoàng Bình Quân sang Bắc Kinh để báo cáo kết quả đại hội đảng đồng thời gởi lời cảm ơn lời chúc mừng của Tập Cận Bình đối với việc tái đắc cử của ông ta. Dù ông Trọng hay ông Dũng có lên nắm quyền thì cả hai cũng đã tới/quá tuổi nghỉ hưu vì vậy họ đều là những kẻ vội vã. Việc ông Dũng có là tổng bí thư hay không cũng không phải là mối quan tâm quá lớn cho người Mỹ dù rằng nếu ông Dũng ở vị trí này thì sẽ có lợi cho người Mỹ hơn. Hoa Kỳ quan tâm hơn đến khoảng trống quyền lực ở vị trí thủ tướng Việt nam, bởi tân thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vẫn chưa có một lập trường vững chắc về Trung-Mỹ. Không giống như Tổng bí thư chỉ là người chỉ đạo Đảng, thủ tướng sẽ liên quan nhiều hơn đến việc tiếp cận trực tiếp với các cơ quan chính phủ để đưa ra quyết định nhẹ nhàng hay sóng gió cho trục xoay hướng về Châu Á vốn được ca tụng của Hoa Kỳ. Theo The National Interest Phương Thảo dịch (Việt Nam Thời Báo)

×
×
  • Create New...