Jump to content

xứ việt

Administrators
  • Posts

    39313
  • Joined

  • Last visited

Everything posted by xứ việt

  1. Stephen Dowling 29 tháng 2 2016 Chia sẻ Image copyrightMichael Jorgensen Trong những tháng cuối cùng trước khi Chiến tranh Thế Giới II kết thúc, Phát xít Đức thử nghiệm một loại máy bay chiến đấu có hình dạng giống tàu vũ trụ hơn một chiếc máy bay thông thường. Mãi cho đến giờ, người ta mới nhận ra thiết kế của chiếc Horten Ho 229 đó đã đi trước thời đại đến mức nào. Vào tháng 12/2015, hãng chế tạo máy bay Hoa Kỳ Northrop Grumman công bố một mẫu thiết kế có tính cách mạng cho chiến đấu cơ trong tương lai. Về mặt lý thuyết, phi cơ mới có khả năng 'tàng hình' để bay qua các vùng chiến sự trong thế kỷ tới. Về mặt ý tưởng, mẫu mới trông giống một chiếc đĩa bay hơn một máy bay chiến đấu - nó được các chuyên gia hàng không gọi là "flying wing", tức là phi cơ có thân cánh liền khối, hay máy bay không đuôi – với việc phần đuôi vốn có ở các máy bay hiện nay được cắt bỏ hoàn toàn. Thiết kế này giúp giảm bớt kích cỡ, tạo ra hình dáng trơn tru ít góc cạnh hơn và vì thế khó bị radar phát hiện hơn. Image copyrightNorthrop Grumman Image captionThiết kế máy bay của Northrop Grumman có nhiều điểm giống với chiếc Horten Ho 229 . Ảnh: Northrop Grumman Thiết kế mới hướng tới chiến đấu cơ cho tương lai, nhưng thực ra kiểu mẫu này đã có từ lâu rồi, sớm hơn ta tưởng nhiều. Thực sự, mẫu chiến đấu cơ có tính đột phá đã được chế tạo và bay thử trong những ngày tàn của Phát xít ở giai đoạn cuối Chiến Tranh Thế Giới II. Thiết kế khó tin Chiếc phi cơ Horten Ho 229 của Đức có lẽ đã tạo ra một dấu ấn trong lịch sử ngành hàng không. Là một bước tiến vượt bậc so với những kiến thức chung về ngành hàng không của con người thời đó, những bí mật về khí động học trong thiết kế của mẫu máy bay này hiện vẫn là điều chưa được người ta hoàn toàn nắm bắt, hiểu một cách cặn kẽ. Một trưởng nghiên cứu gia tại Nasa hiện vẫn đang tìm hiểu xem làm cách nào mà những nhà chế tạo thời đó có thể vượt qua được những thách thức về khí động học, là những thứ lẽ ra phải khiến cho mẫu máy bay này không thể bay được. Thiết kế thân cánh liền khối không thường thấy trên bầu trời bởi vì cực kỳ khó để có thể khiến nó bay được. Khi loại bỏ phần đuôi, là bộ phận có chức năng duy trì độ ổn định và giúp máy bay không chao đảo từ bên này sang bên kia, máy bay sẽ trở nên khó điều khiển hơn nhiều. Vậy người ta cố tạo ra một thứ cực kỳ khó bay như thế để làm gì? Vấn đề là một thiết bị bay với cấu trúc như thế sẽ rất lợi hại. Nó sẽ cực kỳ khó bị radar phát hiện, một phần nhờ vào việc không có đuôi. Hình khối nhiều cạnh, nhiều mặt của phần đuôi khiến máy bay dễ dàng cản sóng radar và gửi trả tín hiệu về hệ thống quét radar, qua đó bị phát hiện. Loại bỏ phần đuôi giúp tránh được điều này. Hình dáng trơn tru ít góc cạnh cũng giúp máy bay ít bị lực cản hơn, do đó máy bay di chuyển nhẹ nhàng hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn, và thậm chí có thể là bay nhanh hơn so với một chiếc máy bay với thiết kế thông thường sử dụng cùng loại động cơ. Về lý thuyết thì tất cả các ý tưởng này đều hoàn hảo, nhưng để đưa vào thực tế lại là điều khó khăn hơn nhiều. Thiết kế loại phi cơ thân cánh liền khối quả là một bài toán đau đầu, khiến các kỹ sư phải quay lại tìm hiểu từ thời anh em nhà Wright làm ra máy bay lần đầu tiên. Chính vì thế, thiết kế của anh em người Đức Horten quả thực quá ấn tượng và vượt trội. Image copyrightMalyszkzWikipedia Image captionThiết kế của chiếc Horten Ho 229 ưu việt vượt xa thời đại Hai anh em nhà Hortens - Walter và Reimar - bắt đầu thiết kế máy bay từ đầu thập niên 1930. Đó là khi Đức chính thức bị cấm sở hữu không quân theo nội dung kiềm chế của Hiệp ước Versailles, được ký sau Đệ nhất Thế chiến. Hai anh em Horten đã tham gia một câu lạc bộ thể thao hàng không để lách lệnh cấm, và đây cũng là nền tảng để thành lập lực lượng không quân của Phát xít Đức, Luftwaffe. Rất nhiều phi công tay ngang sau đó trở thành phi công Luftwaffe đã thực hành bằng cách bay trên rất nhiều loại tàu lượn và dù lượn hoặc các thiết bị bay không có động cơ để học kiến thức cơ bản về bay. Anh em nhà Horten đã kết hợp vừa tập bay vừa thiết kế máy bay - biến phòng khách của gia đình thành một xưởng thiết kế máy bay, website hàng không Aerostories viết. Chiến đấu cơ ưu việt cho Phát xít Đức Hai anh em nhà Horten đã theo đuổi một số ý tưởng độc đáo của nhà thiết kế máy bay cấp tiến Alexander Lippisch, người tiên phong trong việc thiết kế máy bay tân tiến có hình mũi tên (delta). Thiết kế này về sau, trong thời kỳ phát triển mạnh của động cơ phản lực, đã trở thành một dòng máy bay riêng, phi cơ deltawing. Anh em nhà Horten dần phát triển mẫu phi cơ thân cánh liền khối ngày càng đạt kết quả khả quan hơn, và cuối cùng cho ra loại tàu lượn Horten Ho IV. Trên tàu lượn này, phi công nằm ngả người về phía trước, khiến cho vòm kính của buồng lái không cần phải nhô cao lên nhiều so với thân máy bay, giảm bớt lực cản nhờ cấu trúc khí động học. Trước khi tàu lượn Ho IV được thử nghiệm, Walter Horten đã trở thành phi công chiến đấu của Luftwaffe, tham gia Cuộc Không chiến tại Anh quốc. Russ Lee, người phụ trách Bảo tàng Không gian và Hàng không SmithSonian ở Washington DC, nói đó là bước ngoặt. "Dĩ nhiên là người Đức thua trong Cuộc Không chiến tại Anh quốc, và Walter nhận ra nước Đức cần một loại chiến đấu cơ mới. Và một chiếc chiến đấu cơ với hình dạng thân cánh liền khối có lẽ sẽ là một chiến đấu cơ mới hoàn hảo." Cùng thời điểm đó, Herman Goring, người đứng đầu lực lượng không quân Luftwaffe, yêu cầu thành lập dự án có tên gọi 3x1000, nhằm thiết kế ra một máy bay có thể mang theo 1.000kg bom và bay được 1.000 dặm (tức 1.600km) với vận tốc 1.000km/giờ. Điều này đã thúc đẩy anh em nhà Horten phát triển mẫu máy bay Horten Ho 229. Mẫu đầu tiên là một tàu lượn không gắn động cơ, được làm để thử nghiệm thiết kế khí động học. Mẫu thứ hai gắn thêm các động cơ phản lực và bay thành công vào ngày 2/2/1945, mặc dù nó bị rơi do động cơ gặp trục trặc trong một chuyến bay thử nghiệm khác, khiến phi công lái thử thiệt mạng. Tuy nhiên, ông Lee nói, các thử nghiệm cho thấy chiếc máy bay có thể cất cánh, bay và đáp xuống, và thiết kế cơ bản của máy bay là ổn. Image copyrightBrettC23WikipediaCC BYSA 4.0 Image captionMẫu máy bay Horten Ho 229 đang được tái tạo lại để trưng bày. Ảnh: BrettC23/Wikipedia/CC BY-SA 4.0 Lee có một lý do để nắm rõ câu chuyện đằng sau chiếc Ho 229; ông là người chịu trách nhiệm bảo tồn và tái tạo chiếc Ho 229 còn lại duy nhất đã được chế tạo, mẫu thiết kế thứ ba mới hoàn tất được một phần, được gọi tên Ho 229 V3. Giống như nhiều mẫu thiết kế máy bay đột phá khác của người Đức, mẫu máy bay này đã được đưa tới Hoa Kỳ sau Đệ nhị Thế Chiến. Trên đường đi, nó được đưa qua một trung tâm thử nghiệm của Anh tại Farnborough gần London. "Cụm từ cách mạng vẫn chưa đầy đủ khi bạn nói về chiếc Ho 229," Lee nói. "Anh em nhà Horten đã đi xa hơn bất cứ ai trong lĩnh vực này trên thế giới." Sáng tạo vượt thời đại Northrop B-2, loại máy bay hàng đầu của Hoa Kỳ trong hoạt động ngăn chặn hạt nhân, nhìn thoáng qua sẽ thấy ngay là một kế thừa của mẫu thiết kế thiên tài mà anh em nhà Horten tạo ra. Ở mức độ nào đó, một số nhà bình luận mô tả chiếc Ho 229 là "chiếc máy bay ném bom tàng hình đầu tiên trên thế giới" - mặc dù nhiệm vụ của nó là bắn hạ các máy bay ném bom của quân Đồng minh tấn công các mục tiêu công nghiệp và các thành phố của nước Đức. "Để làm cho một trong những chiếc máy bay thế này bay được, bạn phải thiết kế để cánh máy bay làm mọi việc, và cuối cùng có một chiếc máy bay hoạt động tốt hệt như một chiếc máy bay truyền thống có đuôi." Ngoài xu hướng bị chao đảo từ bên này sang bên kia ngay cả trong tình huống bay thuận lợi nhất, một chiếc máy bay không có đuôi có nguy cơ mất điều khiển khi động cơ bị ngắt. "Một trong những vấn đề lớn nhất của chiếc máy bay này là sự ổn định khi bay. Khó khăn nhất là để chiếc máy bay không có đuôi vẫn có thể bay trong khi động cơ tạm ngừng, đó cũng là điều mà mọi chiếc máy bay đều phải làm được," Lee nói. Anh em nhà Horten làm chiếc máy bay ổn định bằng cách sử dụng thiết kế cánh dài và mỏng. Tỷ lệ cánh này giúp dàn trải trọng lượng của máy bay trên một tiết diện lớn, đồng thời giảm lượng không khí tạo thành lốc xoáy xung quanh cánh máy bay vốn gây ra lực cản làm máy bay bay chậm lại. Thiết kế “quả chuông" Reimar Horten có lẽ đã không nhận ra rằng chính ông đã giải quyết được cả hai vấn đề khí động học cực kỳ cấp thiết cùng lúc, theo Al Bowers, trưởng khoa học gia tại Trung tâm Nghiên cứu bay Neil A Armstrong của Nasa tại California. Bowers đã thử nghiệm các nguyên tắc thiết kế cơ bản của anh em nhà Hortens trong nhiều năm. Ông nói khả năng thiên tài của Reimar Horten chính là sử dụng cánh máy bay có hình chuông, là thiết kế không chỉ giúp loại bỏ nguy cơ bị chao đảo mà một chiếc máy bay không đuôi có thể gặp phải, mà còn giúp giảm lực cản tác động vào máy bay. Cánh của phi cơ Ho 229 được thiết kế khác hẳn với cánh máy bay hình e-lip truyền thống, vốn được cho rằng giúp tạo ra lực nâng tốt nhất và giảm lực cản nhiều nhất. Thiết kế cánh máy bay của Horten chịu ảnh hưởng của một trong những lý thuyết của nhà thiết kế tiên phong người Đức tên là Ludwig Prandtl, nhà khoa học đầu tiên nghiên cứu về khí động học theo đó nhấn mạnh hình dạng của đầu cánh máy bay có thể ảnh hưởng to lớn đến khả năng bay. Image copyrightiStock Image captionVào thập niên 1940, hầu hết máy bay có cánh hình e-lip. Ảnh: iStock Ông cũng cho ra một thiết kế cánh máy bay hình chuông vào đầu thập niên 1930 nhưng chỉ với mục đích giảm lực cản mà không nhận ra thiết kế này cũng giải quyết được sự cố chao đảo của chiếc máy bay không đuôi. Cánh máy bay bằng nhiều cách khác nhau đóng vai trò như cánh chim khi bay. Quá trình tiến hoá cho thấy rõ ràng là chưa hề có chú chim nào cần phải có thêm phần đuôi chữ thập dựng đứng lên như đuôi máy bay. Bowers nói: "Chiếc Ho 229 đã đi trước thời đại hàng thập niên. Tôi tin là nó sẽ được coi như thiết kế đi đầu của tương lai ngành hàng không." Thiết kế phi cơ thân cánh liền khối đã đạt được một số thành tựu vào thập niên 1950, chủ yếu là nhờ vào nỗ lực của Jack Northrop, người đã được tạo cảm hứng nhờ vào việc quan sát một số tàu lượn thể thao có từ thời thập niên 1930 của anh em nhà Horten. Mẫu máy bay Ho 229 mà người Mỹ chiếm được sau Đại chiến Thế giới II có lẽ cũng khích lệ ông nhiều. Northrop hồi cuối thập niên 1940 đã thất bại với thiết kế máy bay ném bom không đuôi YB-35. Chiếc máy bay gặp sự cố rung động quá lớn do động cơ cánh quạt gây ra. Điều này chứng tỏ anh em nhà Hortens đã đúng khi sử dụng động cơ phản lực với chiếc Ho 229. Thiết kế YB-49 mà Northrop đưa ra sau đó, được gắn động cơ phản lực, dẫu chưa bao giờ được đưa vào sử dụng nhưng đã mở đường cho việc chế tạo loại máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit hàng thập niên sau đó, một thiết kế có nhiều điểm giống với chiếc HO 229. Từ thời Phát xít đến... sao Hoả Bowers đã áp dụng nguyên tắc của chiếc Ho 229 và các kinh nghiệm rút ra được từ những thử nghiệm trước đó của Prandtl để cho ra một mẫu thiết kế cho Nasa, máy bay thân cánh liền khối không người lái, Prandtl - D, có thể được sử dụng để thăm dò Sao Hoả trong tương lai. Chiếc máy bay Prandtl-D có thể sẽ được sử dụng trong các nhiệm vụ nghiên cứu Sao Hoả, có thể được phóng từ một tàu lượn trên cao, sử dụng năng lượng bay khoảng 10 phút trước khi lượn xuống bề mặt sao Hoả. Chiếc Prandtl-D sẽ không có kích thước lớn như chiếc Ho 229 mà dự kiến chỉ có sải cánh chừng 2 feet ( khoảng 0,6m) và cân nặng chỉ 1,3kg. Image copyrightTom TschidaNasa Image captionThiết kế của máy bay Horten Ho 229 đã tạo cảm hứng cho một số thiết kế của Nasa để khám phá Sao Hỏa. Ảnh: Tom Tschida/Nasa "Chúng tôi tin rằng giải pháp của Prandtl và Horten chính là câu trả lời chúng tôi đã tìm kiếm suốt thời gian dài," Bowers nói. "Nó giải đáp được rất nhiều điều về khả năng bay của chim, về cách giảm thiểu lực cản, và về hiệu quả vượt trội của ngành hàng không trong tương lai." "Tôi tin là chúng ta có thể cải tiến hiệu quả của máy bay ít nhất được thêm 70% nữa. Và công việc của tôi mới chỉ là những bước đầu tiên." "Reimar Horten đã đi đúng đường. Ông chưa bao giờ thấy toàn bộ tiềm năng của ý tưởng ông đã tạo ra. Tôi cũng nghĩ nếu ông thấy chúng ta đang ở đâu thời bây giờ, có thể ông rất hài lòng. Có lẽ không quá hài lòng với bước tiến mà chúng ta đạt được, nhưng ít nhất là ông hài lòng vì chúng ta chịu lắng nghe.” Vậy còn mẫu thiết kế tạo cảm hứng hiện đang để ở bảo tàng SmithSonian thì sao? Lee cho biết công việc bảo tồn thiết kế tiên phong này vẫn đang được thực hiện từ từ và cần mẫn, và khó có thể hoàn thành cho đến đầu những năm 2020. Sau đó, thiết kế đầy cảm hứng và tiên phong này sẽ được đưa ra trưng bày cho công chúng - và khi đó sự thiên tài của anh em nhà Horten trong lĩnh vực khí động học có lẽ sẽ được đông đảo công chúng biết đến nhiều hơn. Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future theo BBC
  2. Đội quân tiên phong bị giải thể trong Chương trình Cải cách Quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là Quân đoàn 27, sự kiện gây chú ý vì đây là đội quân chính gây ra vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989. Thảm sát tại Thiên An Môn ngày 4/6/1989. (Ảnh: Internet) Trang tin Next Magazine ở Hồng Kông gần đây đã đăng bài viết tiết lộ thông tin về hồ sơ mật của Nhà Trắng (Mỹ), theo đó tình báo Washington từng thu thập được tài liệu của nội bộ Trung Nam Hải đánh giá về số thương vong trong sự kiện thảm sát Thiên An Môn lên đến 40 nghìn người, trong đó có 10.454 người bị giết. Trong cuộc thảm sát này, Quân đoàn 27 là thủ phạm chính. Sau vụ thảm sát, ông Giang Trạch Dân được ông Đặng Tiểu Bình tín nhiệm và cho thay thế ông Triệu Tử Dương. Ông Giang được chọn là vì đã thẳng tay trừng phạt “Báo Kinh tế Thế giới” và biết nghe lời lãnh đạo ra tay đàn áp phong trào dân chủ tại Thiên An Môn. Trong “Nhật ký Lý Bằng” cũng khẳng định, ông Giang là “kẻ lãnh đạo và quyết định” đàn áp tại Quảng trường Thiên An Môn. Vụ thảm sát Thiên An Môn. (Ảnh: Internet) Khác biệt về số lượng thương vong trong tài liệu mật Có nhiều số liệu khác nhau liên quan đến số người thương vong trong sự kiện Thiên An Môn. Theo số liệu của Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc, số người chết từ 2.600 ~ 3.000 người. Vào ngày 16/6 năm đó, Tổng Lãnh sự quán Mỹ trú tại Hồng Kông đã chia sẻ một thông tin có được từ tài liệu nội bộ của chính quyền ĐCSTQ, theo số liệu này thì từ ngày 3 – 4/6, tại Thiên An Môn và phố Trường An có 8.726 người bị giết; từ ngày 3 – 9/6, vùng ngoại vi Thiên An Môn thuộc nội thành Bắc Kinh có 1.728 người bị giết. Như vậy, tổng số người chết là 10.454 người, còn số người bị thương thì lên đến 28.796 người. Người Mỹ khẳng định, thông tin tình báo của họ đáng tin cậy, cho dù hiện không có cách nào kiểm chứng được thông tin trong tài liệu gốc này. Theo truyền thông Hồng Kông, tài liệu nội bộ của Trung Nam Hải đánh giá về số thương vong trong sự kiện thảm sát Thiên An Môn và những chi tiết liên quan đến Quân đoàn 27 gây tội ác thảm sát mà người Mỹ thu thập được là chưa từng được biết đến. Theo Next Magazine, tin tình báo của Mỹ có được qua tài liệu nội bộ của Trung Nam Hải đánh giá về số người thương vong trong sự kiện thảm sát Thiên An Môn lên đến 40 nghìn người, trong đó 10.454 người bị giết. Chứng cứ này trái ngược hoàn toàn với công bố công khai của chính quyền ĐCSTQ với cộng đồng quốc tế rằng “không có người chết trong Sự kiện Thiên An Môn 1989.” Quân đoàn 27 gây ra vụ thảm sát là đội quân mù chữ Tối ngày 9/2 năm nay, chương trình “Tin tức Quân sự” của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đưa tin, Quân đoàn 27 đã từ Thạch Gia Trang chuyển tới Sơn Tây. Vào tháng 12 năm ngoái, tờ Minh Báo của Hồng Kông đưa tin, Quân đoàn 27 thuộc Quân khu Bắc Kinh bị giải thể, vào tối ngày 29/12 đã chuyển một bộ phận quân đến doanh trại xe tăng tại quận Giao, thuộc Thái Nguyên – Sơn Tây, đổi tên Sư Lục Quân đoàn 27, Tổng bộ trú tại Thạch Gia Trang – Hà Bắc được chuyển đến Ban Lục quân Chiến khu Trung bộ. Next Magazine chia sẻ thông tin theo hồ sơ mật của Washington, Quân đoàn 27 là đội quân chính ra tay thảm sát khiến nhiều người thiệt mạng tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6. Vào sáng sớm ngày 4/6, đội quân này mang theo vũ khí tiến vào Quảng trường Thiên An Môn thực hiện cuộc thảm sát, trong những người bị giết hại có cả lính của những đơn vị khác, vì thế mà tại đây còn xảy ra một cuộc chiến trong nội bộ lực lượng quân đội Trung Quốc. Theo lời của lính mật thám Mỹ, Quân đoàn 27 là đội quân được tín nhiệm và luôn biết phục tùng, tướng chỉ huy là Yang Jianhua, em trai cựu Chủ tịch nước Dương Thượng Côn, còn Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị khi đó là con của tướng Dương Bạch Băng, còn gọi là Dương Thượng Chính. Nhưng nhân vật bí ẩn này không thấy có bất cứ tài liệu nào nhắc đến, không thể tìm được tên gốc bằng tiếng Trung Quốc. Theo thông tin, Quân đoàn 27 là đội quân đặc biệt được tuyển từ những nông dân vùng hẻo lánh, có đến 60% là mù chữ. Doanh trại Quân đoàn 27 ở Thạch Gia Trang, cách Bắc Kinh khoảng 4 tiếng chạy xe, trước ngày vào thành Bắc Kinh họ được thông báo tới Bắc Kinh để huấn luyện. Trên đường đi vào thành Bắc Kinh, lại được thông báo được cho đi tham quan, ai nấy đều thích thú. Vào ngày 20/5, sau khi Bắc Kinh thực thi lệnh giới nghiêm, họ mới biết “có lực lượng làm loạn.” Khi đó tiến vào Bắc Kinh còn có đội quân của Thẩm Dương và Thành Đô, nhưng chỉ có Quân đoàn 27 mang theo vũ khí chiến đấu, bao gồm: xe tăng, xe thiết giáp, sung ống đạn dược… Vụ thảm sát Thiên An Môn. (Ảnh: Internet) Vụ thảm sát Thiên An Môn. (Ảnh: Internet) Vụ thảm sát Thiên An Môn. (Ảnh: Internet) Hồ sơ nhắc đến vụ thảm sát diễn ra vào sáng ngày 4/6, vụ thảm sát xảy ra tại Lục Bộ Khẩu (Liubukou) ở phía tây Trung Nam Hải. Khi người dân cản trở đường đi của quân nhân, đội quân mù chữ Quân đoàn 27 đã chạy xe tăng lao thẳng vào các quân nhân và người đi đường, những họng súng cũng nhắm thẳng vào người dân khai hỏa. Quân đoàn 27 đã nhận được mệnh lệnh: “Không được cho bất cứ ai chạy thoát, không được cho bất cứ ai sống sót.” Khi xe bọc thép chạy vào Quảng trường Thiên An Môn đã chuyển sang lao vào các học sinh, sinh viên, phụ nữ và trẻ em, giết đến đâu thì dùng máy ủi gom thi thể đến đó và dùng lửa hỏa thiêu. Bọn lính man rợ được thông báo có khoảng 1000 học sinh trốn ở gần khách sạn Bắc Kinh, khu đường Chính Nghĩa, khi những học sinh này vừa kéo vào thì bị lính mai phục chờ sẵn và nổ súng càn quét. Ngay cả xe cấp cứu của Quân đoàn 27 đến Thiên An Môn chi viện cũng bị chính những tên đồng đội điên cuồng này xả súng vào. Lính mật thám của Mỹ, trực thuộc Quân đoàn 27 còn cho biết, bọn chúng ra tay khủng khiếp như thế là hoàn toàn là phục tùng mệnh lệnh của cấp trên. Nhưng hồ sơ của Nhà Trắng còn kể lại tình hình nội bộ trong quân đội Trung Quốc khi đó, ví dụ như một quan chức trong đội quân ở Thẩm Dương sau khi biết tin bạn mình bị Quân đoàn 27 giết hại liền đến trước xe bọc thép của Quân đoàn 27 chửi mắng và lập tức bị một phát súng vào đùi; một quân nhân Thẩm Dương về quê nhà lấy vũ khí rồi trở lại Bắc Kinh liều chết với Quân đoàn 27. Quân đội ở Tân Cương, Giang Tây, Sơn Đông cũng đến Bắc Kinh đối đầu với Quân đoàn 27. Giang Trạch Dân được chọn vì “công lao” tắm máu người dân tại Quảng trường Thiên An Môn Nhiều người đều biết, ông Giang Trạch Dân được lên nắm quyền lực tối cao sau sự kiện Thiên An Môn. Hồ sơ mật của Nhà Trắng cũng đề cập, Bí thư Thành ủy Thượng Hải đương nhiệm Giang Trạch Dân được xem là kẻ được lợi nhiều nhất nhờ công tắm máu tại Thiên An Môn. Năm 1989, ông Giang là Bí thư Thành ủy Thượng Hải, vào trung tuần tháng 5/1989 làn sóng dân vận lan tới Thượng Hải, mũi nhọn dân chúng chĩa vào ông ta, thời điểm đó báo Kinh tế Thế giới ở Thượng Hải là tờ báo ủng hộ cải cách, vì đăng bài viết tưởng nhớ ông Hồ Diệu Bang nên đã bị Giang đến chỉnh đốn và bị đình bản. Sau sự kiện Thiên An Môn, người Mỹ mới biết rằng, khi thực hiện lệnh giới nghiêm vào ngày 20/5 tại Bắc Kinh, ông Giang đã được ông Đặng Tiểu Bình hứa sẽ cho lên thay ông Triệu Tử Dương. Ông Giang được chọn là vì mạnh tay xử lý Báo Kinh tế Thế giới, và hùa theo bài Xã luận 426 trên Nhân dân Nhật báo. Trong đó, sự kiện của Báo Kinh tế Thế giới là tâm điểm dẫn đến Phong trào Dân chủ Học sinh Sinh viên năm 1989. Giang Trạch Dân bước lên đỉnh quyền lực nhờ tắm máu người dân Trung Quốc tại Quảng trường Thiên An Môn. (Ảnh: Internet) Trong “Nhật ký Lý Bằng” viết, trong đêm xảy sự kiện Thiên An Môn, ông Giang Trạch Dân ở ngay gần Thiên An Môn để chỉ huy “chiến trường”. Cuốn Nhật ký còn chỉ ra, ngày 3/6/1989, ông Đặng Tiểu Bình đã phê chuẩn phương án đàn áp phong trào vào tối hôm đó, ông Giang “trú tại lầu 4 tòa nhà của lực lượng Cảnh vệ, có thể quan sát mọi động thái tại Quảng trường Thiên An Môn qua cửa sổ.” Tháng 1/2011, nhà đấu tranh nhân quyền Ngụy Kinh Sinh sống lưu vong ở ngoài Trung Quốc Đại Lục đã có bài viết tiết lộ, nhiều người không biết, trước sự kiện Thiên An Môn ngày 4/6/1989, ông Giang Trạch Dân đã được xem như là Tổng Bí thư, vì thế mới có thể vào thành Bắc Kinh chỉ huy cuộc tàn sát. Tội ác của ông Giang trong vụ thảm sát này là rõ như ban ngày Cùng với việc ông Giang lên nắm quyền, ông Triệu Tử Dương vì phản đối đàn áp phong trào dân chủ Thiên An Môn 1989 nên đã bị mất chức, sau đó bị giam lỏng tại số 6 Hồ Đồng, Phú Cường, Bắc Kinh, đến năm 2005 thì qua đời ở tuổi 85. Vào năm 2002, khi ông Giang mãn nhiệm kỳ Tổng Bí thư và Chủ tịch nước, ông ta đã đưa ra một số quy định cho các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, trong đó có quy định là “không được lật lại vụ án tại Quảng trường Thiên An Môn.” Nguyên nhân của Quy định này là vì chính ông ta là nhân vật chủ mưu và cũng là kẻ giành được lợi ích nhiều nhất. Tinh Vệ (biên dịch theo Secretchina) (Đại Kỷ Nguyên VN)
  3. Anh Otto Frederick Warmbier xuất hiện trong buổi họp báo ở Bình Nhưỡng sau gần 2 tháng bị giam (Ảnh: Facebook) Theo CNN, hôm nay (29/2), một sinh viên người Mỹ bị giam ở Bắc Triều Tiên gần 2 tháng đã xuất hiện trước truyền hình quốc gia nước này và nhận tội “ăn cắp khẩu hiệu trong khách sạn” ở Bình Nhưỡng. Otto Frederick Warmbier, 21 tuổi, sinh viên Trường Đại Học bang Virginia, đã bị bắt giữ trước khi lên máy bay rời Bắc Triều Tiên hồi tháng 1/2016. Warbier bị Bình Nhưỡng cáo buộc thực hiện “hành đồng thù địch” chống chính quyền. “Tôi đã phạm tội lấy biểu ngữ có khẩu hiệu chính trị tại khách sạn quốc tế Yanggakdo”, hãng tin KCNA – cơ quan truyền thông của chính quyền Bình Nhưỡng trích lời nhận tội của anh Warbier. “Mục đích của hành động này là phá hoại động lực và tinh thần làm việc của người dân Triều Tiên. Đây là một việc làm ngu ngốc”. “Lẽ ra tôi không nên để bản thân bị chính quyền Mỹ xúi giục phạm ở đất nước này… đây là sai lầm lớn nhất trong cuộc đời của tôi”, nam sinh viên này đọc một tuyên bố được viết sẵn tại buổi họp báo. Đây là lần đầu tiên sinh viên Warmbier xuất hiện trước truyền thông từ khi bị bắt. Hiện chưa rõ đây có phải là những tuyên bố tự nguyện của anh này hay không. Tuy nhiên có nhiều trường hợp người nước ngoài bị bắt ở Bắc Hàn sau khi được thả ra đã rút lại các tuyên bố nhận tội, nói rằng họ bị Bình Nhưỡng dùng áp lực ép buộc. Minh Trí tổng hợp (Đại ỷ Nguyên VN)
  4. Khoảng trên 4 triệu kiều dân Việt Nam ở hải ngoại đang sống ở khắp nơi trên thế giới. Thiết chế bầu cử cần mở rộng để cho các cử tri là kiều dân Việt Nam ở nước ngoài có thể tham gia các kỳ bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân và Việt Nam cần tìm giải pháp để kiều dân thực hiện các quyền bầu cử, ứng cử của họ, theo các chuyên gia và nhà quan sát về luật pháp và Quốc hội Việt Nam. Trao đổi với BBC tại Bàn tròn trực tuyến cuối cùng trong tháng Hai mới đây, hôm 25/2/2016, Giáo sư Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết , nguyên Đại biểu Quốc hội Việt Nam đề cập việc thay đổi chính sách này. Ông nói: "Tôi nghĩ rằng trong thời gian từ nay đến ngày 22/5 thì chắc là không kịp điều chỉnh. "Nhưng tôi cũng rất chia sẻ với ý kiến của Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao (khách mời tại Tọa đàm) rằng các công dân Việt Nam ở nước ngoài, tức là những người Việt sống ở nước ngoài, nhưng mà vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam, thì theo luật vẫn hoàn toàn có quyền bầu cử và có quyền ứng cử. "Và chúng ta cũng cần phải tìm giải pháp để tổ chức cho đồng bào của chúng ta (kiều dân Việt Nam) thực hiện quyền của mình. "Nhưng ở đây, tôi cũng phải nói thật là khi mà đi vào thực hiện là cũng có những khó khăn, không phải là dễ dàng đâu. "Tôi lấy ví dụ như có một vài địa phương ở nước ngoài chỉ cần một Việt kiều treo quốc kỳ Việt Nam, hoặc là bắc cái chảo ăng-ten để mà xem các chương trình truyền hình ở trong nước, là có thể bị một nhóm những người Việt khác gây khó khăn, đập phá, rồi có thể làm những chuyện rất phức tạp. "Thế trong tình hình như thế, thì mình (Việt Nam) mà tổ chức hòm phiếu ở nước ngoài là một chuyện cực kỳ khó, khó đảm bảo kết quả." Phải nghĩ đi thôi GS. Nguyễn Minh Thuyết cho rằng nay là lúc Việt Nam cần bắt đầu phải nghĩ về chính sách đảm bảo quyền lợi cho kiều dân, công dân Việt Nam được bầu cử và ứng cử. Giáo sư Thuyết cảnh báo việc tổ chức cho kiều dân, công dân Việt Nam bầu cử, ứng cử ở hải ngoại 'không dễ dàng' do các khác biệt về chính trị v.v... Về quyền ứng cử của kiều dân, công dân Việt Nam ở hải ngoại, GS Nguyễn Minh Thuyết bình luận thêm: "Thứ hai, về quyền ứng cử, tôi cũng phải nói thật thế này, nếu như bây giờ mình có thể tạo điều kiện để người Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam ở nước ngoài, mà tổ chức bầu cử, thì chính ở những nơi như thế, thì những người Việt Nam ở nước ngoài có thể ra ứng cử, là đại diện cho đồng bào ở khu vực ấy. "Như thế là tốt nhất, thế còn một số vị nói rằng bây giờ về trong nước ứng cử, thì trừ phi là các vị về sống hẳn ở trong nước thôi, còn nếu mình vẫn sống ở nước ngoài mà mình ứng cử ở trong nước, thì có hai chuyện xảy ra. "Một là đồng bào ở địa phương mà người ta sẽ bỏ phiếu cho mình, người ta không biết mình để người ta tin cậy, bỏ phiếu. Cái thứ hai nữa là bản thân mình mà ở nước ngoài, thì cũng không sát được với cử tri, cho nên cũng rất là khó thực hiện nhiệm vụ của Đại biểu. "Chỉ khi nào chúng ta tổ chức được cho đồng bào ở nước ngoài bỏ phiếu được, và sẽ có những người đại diện cho cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài trong Quốc hội, thì tôi nghĩ như thế chỉ có tốt hơn thôi, bởi vì đây là một bộ phận khăng khít của dân tộc. "Và các vị đó là đại diện cho bộ phận này ở trong Quốc hội, thì các vị cũng có thể góp ý để xây dựng chính sách đối với người Việt ở nước ngoài và những chính sách xây dựng đất nước khác và có thể huy động được đồng bào đóng góp công cuộc xây dựng trong nước, thì tôi nghĩ chỉ có tốt hơn thôi. "Nhưng mà chỉ có điều là bây giờ thì phải bất đầu phải nghĩ đi thôi, chứ còn bây giờ mà không nghĩ thì 5 năm tới nó cũng sẽ không có chuyện này trở thành hiện thực." Chưa có chính sách Trước đó, tại Bàn tròn của BBC về tự ứng cử và bầu cử Quốc hội ở Việt Nam, PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam - Vusta) khẳng định Việt Nam hiện chưa có chính sách và văn bản pháp luật nào liên quan tới việc mở rộng các quyền bầu cử, ứng cử với công dân, kiều bào Việt Nam ở hải ngoại. Ông nói: "Thực tế trong hệ thống chính trị của chúng ta (Việt Nam) hiện nay, chưa thấy Quốc hội bàn đến vấn đề này, cũng chưa thấy có một văn bản hay một quy định nào rằng là phải mở rộng cái quyền bầu cử ra cho Việt kiều ở nước ngoài. PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao khẳng định kiều dân Việt Nam ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam hoàn toàn có quyền bầu cử và tự ứng cử trong các cuộc bầu cử Quốc hội VN. "Thì điều này chúng ta phải (nói) cho nó rạch ròi, về mặt thực tiễn thì hiện nay không thấy có quy định nào. "Về mặt chính trị, thì Đảng (Cộng sản Việt Nam) đã tuyên bố là (Việt kiều) là một bộ phận, thì đáng lẽ là phải hiện thực cái tuyên bố chính trị này bằng những quy định pháp luật cụ thể để tạo điều kiện cho đồng bào Việt kiều có thể tham gia cái nền chính trị và hoạt động chính trị của đất nước. "Thế nhưng rất tiếc là cho đến nay, tôi nghĩ là điều này cũng chưa ai đặt vấn đề và chắc cũng chẳng có thực hiện gì được ở trong cuộc bầu cử này." Hoàn toàn có quyền Trước câu hỏi làm thế nào đáp ứng được nhu cầu về tự ứng cử của kiều dân Việt Nam ở hải ngoại, PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao nêu quan điểm: "Theo tôi luật quy định là công dân Việt Nam, thế nếu như là Việt kiều ở nước ngoài vẫn vừa có quốc tịch nước ngoài, nhưng có quốc tịch Việt Nam, theo tôi, những người như vậy hoàn toàn có quyền tự ứng cử để tham gia Quốc hội Việt Nam," ông khẳng định. Được biết, ngoại trừ một số trường hợp như Việt Nam, Trung Quốc v.v..., còn lại nhiều quốc gia hiện vẫn có chính sách, luật định và có tổ chức việc bầu cử, ứng cử... cho kiều dân của các nước này ở hải ngoại trong các kỳ bầu cử của nhà nước, chính quyền, hoặc tham gia các hoạt động chính trị khác như trưng cầu dân ý v.v... Mới đây, chẳng hạn, trong kỳ bầu cử phổ thông đầu phiếu ở Myanmar, kiều dân nước này ở hải ngoại đã được tổ chức để bỏ phiếu thực hiện quyền công dân và chính trị của họ. Riêng tại Singapore, truyền thông quốc tế ghi nhận có tới khoảng 20.000 người dân Myanmar đã tham gia kỳ bầu cử tại một điểm bỏ phiếu được mở từ sáng đến chiều, trong thời gian gần một tuần lễ cùng thời điểm với bầu cử diễn ra ở trong nước. Mời quý vị theo dõi thêm về cuộc Tọa đàm của BBC với các vị khách về chủ đề này tại đây: https://youtu.be/socMFYAIzI8 (BBC)
  5. Lễ dâng sao giải hạn trong tâm linh người Việt Đầu năm, bắt đầu từ mồng Một tháng Giêng, câu chuyện đầu năm xứ Việt có vẻ như không giống xứ nào bởi có quá nhiều chuyện để kể và càng kể càng thấy sợ. Từ chuyện các lễ hội cho đến chuyện đi chùa xem bói, đi chùa xin lộc, đến đền miếu vay vốn cõi âm rồi ngày thơ Việt Nam, dâng bánh chưng nặng vài tạ cho mẹ bác Hồ… Kính thưa các loại lễ. Đó là chưa muốn nói đến số lượng người chết, bị thương vì đi chơi Tết, gặp tai nạn xe, đánh nhau, cướp lộc, tranh lộc, đâm chém nhau vì lộc… Dường như chuyện nào cũng nổi cộm. Từ thị trường lộc đầu năm béo bở Chỉ riêng chuyện đánh nhau và tai nạn, con số đã lên đến vài vạn, môt con số kinh đầu Bác! (nói theo cách của người miền Bắc), miền Nam gọi là con số kinh đầu gà! Đó là chuyện tai nạn, đánh nhau, chặt chém, chuyện mà nhà nước xem là vô văn hóa, là nằm ngoài khả năng quản lý của họ, họ đang cố gắng khắc phục và chấn chỉnh. Còn chuyện lễ hội, chuyện tranh ấn, cướp lộc, chà đạp lên nhau thì sao? Phải nói rõ rằng đây là những lễ hội do nhà nước tổ chức. Nếu không có nhà nước đứng ra tổ chức thì không có đền miếu, ông từ hay ông thầy nào dám đứng ra tổ chức một lễ hội to lớn như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên hay vô tư mà các đài truyền hình nhà nước đưa tin, loan tải những hình ảnh tranh ấn, cướp lộc. Nói cách khác, đây là một kiểu PR cho lễ hội mà nhìn bề ngoài khó thấy được. Mọi năm, lễ hội chỉ có những người nông dân xứ Bắc tranh lộc, giành giật nhau một cách vui vẻ, không đến mức đổ máu, ngất xỉu như hai năm trở lại đây. Vì sao? Vì cách đây năm năm, các đài truyền hình đã đưa hình ảnh tranh giành, cướp lộc một cách hồ hởi, vui vẻ của người nông dân miền Bắc. Và điều này gây tò mò cho những nhà giàu miền Nam. Đương nhiên những người giàu họ không có thời gian, sự liều lĩnh cũng như sức khỏe để xông vào cướp lộc mà họ chỉ mua lại lộc của người đã cướp được. Ví dụ như lộc hoa tre ở Đền Gióng chẳng hạn, giá sẽ dao động từ vài trăm triệu đồng đến một tỉ đồng. Tương đương với vài chục ngàn đến năm chục ngàn đô la Mỹ. Một con số có thể kích thích cho các băng nhóm, các tổ chức xã hội đen vào cuộc để giành lấy. Trước lễ phát lộc một ngày, giới nhà giàu cả Bắc lẫn Nam có một cuộc đấu giá bên ngoài đền, họ làm rất có tổ chức, ngồi đấu giá hẳn hoi, có giá sàn, giá trần. Giá sàn lộc hoa tre của lễ hội đền Gióng năm nay là một trăm triệu đồng, và mức đấu cuối cùng là bốn trăm bảy chục triệu đồng, sau năm lần bảy lượt mua qua bán lại, giá cuối là một tỉ một trăm triệu đồng, rơi vào một tay nhà giàu người Bình Dương. Thường những tay nhà giàu rất tin vào lộc và phép ở các lễ hội miền Bắc. Kể cả giới nghệ sĩ, ví dụ như Hoài Linh và Xuân Hinh, hai nghệ sĩ này thường đến các các đền ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai… để hầu đồng và hát chầu văn. Riêng Hoài Linh có cả một CD anh ngồi đồng và cậu nhập vào anhh để hát múa, cho lộc, CD này bán khá nhiều ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội. Nhưng trong giới đi đền miếu phía Bắc kháo nhau rằng Hoài Linh ngồi đồng xấu hơn Xuân Hinh và cho lộc cũng không linh nghiệm bằng Xuân Hinh ngồi đồng. Nhưng đó chỉ là những chuyện ngoài lề, vấn đề vẫn là cướp lộc. Một khi lộc ở đền miếu được biến thành một sản phẩm có giá hời, trong đó có cả những quan chức đứng sau những “đại gia” mua lộc thì câu chuyện sẽ còn đi xa nữa. Bởi tay mua lộc hoa tre người Bình Dương mua lộc một tỉ một trăm triệu đồng không phải để mang về nhà mà để mang đến biếu cho một anh cả đang công tác trong trung ương đảng. Đương nhiên không có cách đầu tư và lót tay nào chắc và khôn hơn cách lót tay này. Vài chục tỉ lót tay cho anh cả cũng chỉ là cái phong bì. Nhưng một tỉ mốt trầy vi tróc vảy để có được lộc hoa tre mang về cho anh cả thì còn gì hơn! Và cũng theo thông tin của giới giang hồ phía Bắc, hai năm nay họ tổ chức được những đội chuyên đi tranh lộc, cướp lộc để bán. Những nông dân không bao giờ vào tranh được lộc và nếu có tranh được chăng nữa cũng sẽ bị cướp trên đường về. Lộc chỉ rơi vào tay các quan và giới quyền lực, có nhiều tiền, lộc ở các đền miếu không bao giờ rơi vào tay dân nghèo. Điều này giống như một chân lý thời bây giờ. Và chuyện tranh cướp lộc, giẫm đạp lên nhau, chém giết nhau vì cướp lộc chỉ dừng lại, chỉ chấm dứt khi nó không còn giá tiền tỉ. Hay nói cách khác, chuyện tranh lộc, cướp ấn sẽ không còn lộn xộn như hiện tại nếu các quan biết từ chối món quà cầu may đầu năm của đàn em tặng. Thị trường lộc cầu may ở các đền miếu trở nên lộn xộn và phức tạp bởi vì các quan quá tin vào lộc và đàn em sẵn sàng bỏ ra hàng núi tiền để mua lộc tặng cho các quan. Một khi các quan cùng với đàn em trọc phú biến các lễ hội thành thị trường mua bán lộc đầu năm thì chuyện người ta giết nhau vì lộc vẫn có thể xảy ra. Đài truyền hình nhà nước, trong thời điểm này đưa tin về chuyện cướp lộc và thả sức chê trách người dân vô ý thức là một chuyện hoàn toàn sai phạm với nhân dân. Bởi không có người dân nào sai trong chuyện cướp lộc, không những thế, người dân đi lễ với tâm thành kính bị ảnh hưởng không nhỏ do giẫm đạp cướp lộc. Nếu các đài trong nước còn một chút tự trọng thì phải tìm hiểu, điều tra tận gốc rễ vấn đề. Mà vấn đề dễ tìm nhất là thử điều tra các ấn, lộc, hoa tre, tú cầu may… trong ba năm nay đang nằm trên bàn thờ gia đình nào. Kết quả điều tra này sẽ nói lên tất cả! Đến cúng nhương sao và ngày thơ Việt Nam Nếu như chuyện mua bán lộc đầu năm béo bở chừng nào thì chuyện nhương sao và ngày thơ Việt Nam cũng béo bở không kém phần. Bởi theo qui luật, người ta gây bao nhiêu tội thì sợ bấy nhiêu, tham nhũng, hối lộ, đút lót càng nhiều thì lễ nhương sao, cầu an càng đắt đỏ bấy nhiêu. Khi cả một xã hội nháo nhào lên vì lòng tham thì cái xã hội đó cũng cuống cuồng lo sợ tội lỗi. Chính vì vậy những ngày tháng Giêng là ngày hốt bạc ở các chùa chiền, đền miếu nhờ vào lễ nhương sao, cầu siêu… Nhưng còn ngày thơ Việt Nam thì liên quan gì đến lộc? Có đó, đây là ngày mà những ban bệ tổ chức (gồm các nhà văn, nhà thơ quốc doanh) hốt bạc. Họ hốt ở cả hai phía, từ tiền tổ chức đến thành phần tham gia, tham dự. Về phía tiền tổ chức, một đêm thơ nguyên tiêu cấp huyện tốn ít nhất ba trăm triệu đồng, cao nhất chừng một tỉ đồng. Tiền chuẩn của nhà nước rót là ba trăm triệu, tiền mạnh thường quân cho thêm thì không biết được. Ban tổ chức thả sức chi tiêu và ghi hóa đơn. Về phía người tham gia, hầu hết những đêm nguyên tiêu đều là đêm thăng hoa của các nhà thơ hưu trí. Họ làm thơ Đường, thơ lục bát, vè lục bát và kính thưa các loại ò e í e vần vèo. Nếu xét về mặt nghệ thuật thì không có gì nhưng họ lại được lăng xê hết mức như những nghệ sĩ lớn trong đêm nguyên tiêu. Và, phía ban tổ chức đã có sẵn những tham luận về thơ của mấy vị hưu trí. Họ viết phê bình, tham luận, bình luận để đọc trước khi vị nhà thơ hưu trí lên đọc thơ. Và để được như vậy, các nhà thơ hưu trí đã có một cuộc chạy đua ngấm ngầm trước đó, từ tháng Chạp, họ đã quà cáp, biếu xén, lót tay ban tổ chức. Thậm chí có những vị hưu trí mạnh tiền sẵn sàng bỏ ra vài trăm triệu đồng để ban tổ chức mạnh tay làm riêng cho mình một đêm thơ nguyên tiêu. Xét trên khía cạnh này, ngày nhà thơ cũng là một ngày cầu lộc, cầu siêu. Nếu như việc đọc thơ của các nhà thơ hưu trí là một cái lộc cho ban tổ chức thì đêm thơ nguyên tiêu lại là nơi cầu siêu, làm cho những bài thơ hưu trí được siêu thoát sau một năm mắc kẹt trong giấy bút của các vị. Và không chừng, tuy nghỉ hưu nhưng các vị vẫn còn đàn em, chân rết trong hệ thống nhà nước rất mạnh. Như vậy, nịnh những nhà thơ hưu trí cũng là cách để nhanh chân bước lên ghế cao của ban tổ chức nếu các nhà thơ hưu trí thấy đẹp lòng, chịu cúi xuống để gởi gắm, nhờ đàn em giúp đỡ cho “đứa cháu văn nghệ” đang công tác tại chỗ cơ quan A, B, C… nào đó! Có thể nói rằng câu chuyện đầu năm ở Việt Nam là một câu chuyện hết sức lộn xộn và chợ búa. Mà sở dĩ nó trở nên lộn xộn và chợ búa như vậy là do hệ thống lãnh đạo đã không những tìm cách làm cho nó giảm đi mà còn nhúng tay vào để khuấy cho nó đục thêm. Nó đục đến cỡ nào thì phải hỏi chính các ông lãnh đạo. Và các ông lãnh đạo, các đài truyền hình nhà nước cũng nên thôi huênh hoang chê dân vô văn hóa. Chính các ông và hệ thống tuyên truyền, truyền thông của ông mới là những kẻ vô văn hóa đúng nghĩa! VietTuSaiGon (Blog RFA)
  6. Tin liên hệ Khi Hiến pháp bị vi phạm có hệ thống Hiến pháp Việt Nam đã bị vi phạm một cách có có hệ thống. Đây là một thảm họa quốc gia đã kéo dài Chỉ có dân chủ và kỷ cương mới đẩy lùi được nạn chênh lệch thu nhập Tư bản trong thế kỷ XXI của Thomas Piketty Eo biển cay nghiệt Tết này, ông Tập buồn lắm Ðường dẫn Blog Bùi Tín Bùi Tín 28.02.2016 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gần đây có nói một câu khá hay: “Lãnh đạo Cộng sản trọng dân, gần dân và vì dân‘’. Tôi rất ngỡ ngàng và hoài nghi về câu nói đó. Vì đây là nỗi băn khoăn lớn nhất của tôi hàng mấy chục năm nay. Tôi cho rằng khinh dân, coi thường dân, quay lưng lại với nhân dân là sai lầm, tội lỗi nặng nề nhất, thâm căn cố đế không sao sửa chữa được của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN). Nếu như từ nay đảng CS cùng ông tổng bí thư trọng dân thật sự, gần dân thật sự thì còn gì hơn nữa. Nhưng có quả thật như thế không? Tôi nghiệm rằng ngay từ hồi Cách mạng tháng Tám 1945, dưới thời ông Hồ Chí Minh, cái tệ cao ngạo, khinh bạc với nhân dân, với những cá nhân ngoài đảng hết lòng ủng hộ đảng CS cũng đã bộc lộ rõ ràng. Thái độ tàn ác với bà Nguyễn Thị Năm, người từng cưu mang các nhà lãnh đạo của đảng, bị bắn với tội ‘’địa chủ gian ác’’, dù có hai con trai là cán bộ trong Quân đội Nhân dân, là một bằng chứng hiển nhiên. Trần Huy Liệu, vốn là đảng viên Quốc dân đảng theo phong trào Việt Minh, dự Hội nghị Tân Trào tháng 8/1945, được bầu là Phó Chủ tịch Ủy ban Dân tộc Giải phóng, từng soạn thảo ra Quân lệnh số 1 phát động cuộc Tổng Khởi nghĩa, những tuần đầu luôn được coi là nhân vật số 2, sau Hồ Chí Minh, làm Bộ trưởng Thông tin Tuyên truyền, trên Võ Nguyên Giáp, thế mà ngay sau đó gần như cho ra rìa, không vào được Ban Chấp hành Trung ương (CHTƯ) đảng, chỉ hoạt động về nghiên cứu lịch sử. Ông Liệu cho biết chỉ vài tuần sau Cách mạng tháng 8, khi Trường Chinh về Hà Nội là ông biết ngay là mình sẽ không còn ở cương vị quyền lực nữa. Ông nói: ’’Tôi không trách gì người ta, vì đó là nếp nghĩ Stalinit, ai không là CS gốc gác thì không có tín nhiệm. Tôi từng theo Quốc Dân đảng từ năm 1928, khi 27 tuổi, đi tù CS Sơn la năm 1939, nhưng nếp nghĩ vô sản là thế, họ hoài nghi mọi thứ không đâu, trừ bản thân họ.’’ Trần Văn Giàu cũng là một trí thức lớn, học ở Pháp, vào đảng CS Pháp, sang Nga học trường Đông Phương, bạn của Maurice Thorez, Broz Tito, từng là Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ đảng CS, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam bộ. Ông Giàu am hiểu tình hình thế giới, luôn có ý kiến độc lập, nên không được Hồ Chí Minh và Trường Chinh tín nhiệm, nên dù được đảng bộ miền Nam giới thiệu, vẫn không được vào Ban CHTƯ. Các ông Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch, Lê Văn Hiến ( từng là Bộ trưởng tài chính suốt mười năm chiến tranh chống Pháp, từng là Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng), Nguyễn Văn Tạo (từng tham gia xứ ủy CS Nam kỳ) ... đều không được trọng dụng, cũng chỉ vì là dân miền Nam, không có gốc Bắc, coi thường Trung ương. Trước Đại hội XII Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề ra tiêu chuẩn tổng bí thư ‘’phải là người miền Bắc‘’ là chia rẽ dân tộc, vi phạm Hiến pháp khi Hiến pháp chỉ rõ các ‘’công dân là bình đẳng, dân tộc Việt Nam thống nhất’’. Trọng dân, gần dân, nhưng dân miền Bắc thôi, dân miền Nam từng là thuộc địa Pháp, không đáng tin cậy. Tôi không sao quên sau 30/4/1975, đảng CS phái hơn 120 ngàn cán bộ miền Bắc vào ‘’tiếp quản miền Nam’’, thuộc đủ ngành nghề, đông nhất là giáo dục, công an, tòa án, thuế quan, quản lý trại giam, hộ khẩu. Các cán bộ đi Nam được nâng một cấp, nhiều giáo viên lên làm hiệu trưởng, hiệu phó các cấp học, từ phổ thông cơ sở đến đại học. Không ít người bị nhiễm tư duy coi dân miền Nam là kém cỏi, thấp hơn dân miền Bắc về mọi mặt do đảng CS truyền cho tư duy trịch thượng nói trên. Họ hãnh tiến, hiếp đáp dân miền Nam, bênh vực nhau, kỳ thị dân bản xứ, gây không biết bao nhiêu oan ức, bất công, dù họ được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi, có nhà ở rộng rãi, có tivi, tủ lạnh, xe cộ đi lại, khác hẳn cuộc sống cùng cực thời chiến tranh ở ngoài Bắc. Rõ ràng đảng CS đã nuôi dưỡng ý thức coi dân miền Nam là dân loại hai. Trọng dân là như thế ư? Tôi được biết không ít trí thức, quân nhân miền Nam đã thành ‘’thuyền nhân’’ do thấm thía cảnh bị bạc đãi, phân biệt cư xử phi lý như vậy. Điều khá mỉa mai là cán bộ miền Bắc kém rõ dân miền Nam về mọi mặt, kiến thúc chuyên môn, về giao tiếp ngoại ngữ, về kinh nghiệm thực tế và cả về đạo đức nữa. Cần chỉ ra rằng ngay sau Cách mạng tháng Tám, tinh thần khinh dân, phân biệt đối xử với các nhân sỹ, trí thức từng tham gia với đảng CS để đuổi quân Nhật, đánh quân Pháp, loại quân Tưởng.. cũng mang thói tự kiêu vô sản CS, vô ân bạc nghĩa như thế. Nếu không có hàng loạt nhân sỹ, viên chức, giáo sư, quan lại cũ ngoài đảng thì làm sao đảng CS nắm được chính quyền dù chỉ trong một tuần. Tôi chỉ kể một số vị nổi tiếng, như các ông Hoàng Minh Giám (thuộc đảng xã hội Pháp SFIO), kỹ sư Nguyễn Xiển; các nhà luật học Trần Công Tường, Nguyễn Mạnh Tường, Vũ Đình Hòe, Vũ Trọng Khánh; các bác sỹ Tôn Thất Tùng, Trần Duy Hưng; các giáo sư Tạ Quang Bửu, Lê Tư Lành, Đỗ Đức Dục, Trương Tửu, Nguyễn Dương Đôn, Phạm Đình Ái, Nguyễn Lân, Nguyễn Thúc Hào; các nhà lãnh đạo Hướng đạo sinh Hoàng Đạo Thúy và Tạ Quang Bửu; các nhà văn Nam Cao, Nguyễn Bính, Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Hồng; 2 anh em nhà kinh doanh Trịnh Văn Bính, Trjnh Văn Bô; các nhân sỹ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Ngô Tử Hạ, Lê Đình Thám; các nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Hà, Hoàng Tích Trí; các quan lại cũ Phan Kế Toại, Vi Văn Định, Đặng Văn Hướng... chưa kể hàng vạn, chục vạn người khác ở các địa phương. Cần chỉ rõ mỗi một người trên đây đã làm gương, cổ vũ, lôi cuốn cả một giới, bè bạn, gia đình của họ theo đảng CS, như giới luật học, giáo giới, các nhà nghiên cứu, hàng chục vạn hướng đạo sinh, hàng vạn nhà kinh doanh và tiểu thương, tiểu chủ... góp hàng vạn lạng vàng cho Tuần lễ vàng, hàng triệu quan lại viên chức chính quyền cũ, cùng với hàng chục vạn ‘’Địa chủ yêu nước’’ (để phần lớn bị tận diệt trong Cải cách ruộng đất). Tất cả các nhân vật trên đây là dân ngoài đảng, đã lập thành tích vượt xa nhiều đảng viên, nhưng đều ở cương vị bị lãnh đạo, không ít là nạn nhân bị vắt kiệt nước chanh rồi bỏ vỏ. Có ai còn nhớ đến công sức của ông Phan Anh cùng ông Tạ Quang Bửu, ngay khi phát xít Nhật trao trả độc lập sau cuộc đảo chính 9/3/1945, tham gia chính phủ Trần Trọng Kim đã không lập Bộ Quốc phòng để tránh sự can thiệp quân sự của phát xít Nhật, lập ra Trường Thanh niên Tiền Tuyến thuộc Bộ Thanh niên, thực tế là trường quân sự, gồm gần 60 sinh viên, hướng đạo sinh, chuyên huấn luyện về quân sự, để sau đó trở thành nòng cốt cho các trung đoàn chính quy ở miền Trung, có người thành tướng sau này như ông Nguyễn Thế Lâm, Cục trưởng tác chiến Phan Hàm, các Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt, Tôn thất Hoàng... Nhân đây không thể nhắc đến hai anh Việt và Hoàng, có công lớn trên mặt trận Đường 4 và Điện Biên Phủ, rồi bị đối xử tàn tệ ra sao chỉ vì có nguồn gốc quan lại, không có ‘’mác bần cố nông’’. Anh Việt là “con hùm xám” của Đường 4, cơn ác mộng của các đơn vị lê dương Pháp trong cả vùng rộng lớn. Anh vẫn chỉ là Trung đoàn trưởng suốt đời, trong khi chính ủy đơn vị là Chu Huy Mân leo lên đến cấp đại tướng, vì ông này vốn là cố nông. Còn anh Hoàng là cán bộ tham mưu binh chủng pháo ở Điện Biên Phủ. Anh là cán bộ có trình độ toán cao cấp, nắm chắc cách tính toan, huấn luyện kỹ cho từng đơn vị để các dàn pháo đạt hiệu quả cao nhất. Anh Hoàng là con cụ Thượng thư triều đình Huế Tôn Thất Quảng, anh Việt là con cụ Đặng Văn Hướng từng là Tổng đốc Thanh hóa và Nghệ an. Hai anh có thành tích vượt trội các tướng lĩnh nhưng không được lên cấp cao là Đại tá, bị cưỡng bức chuyển ngành ngay sau Hiệp định Gieneve , nhà ở chỉ hơn 10 mét vuông, anh Việt phải đi bỏ mối bánh gatô cho các quán cà phê. Cụ Đặng Văn Hướng tuy là bộ trưởng của Hồ Chí Minh, vẫn bị đấu tố tàn nhẫn trong Cải cách ruộng đất. Đơn anh Việt yêu cầu đảng và Nhà nước cứu xét, khôi phục danh dự cho cha mình đến nay vẫn không có ai trả lời. Trên đây cho thấy đảng CS đã khinh thị dân đến mức nào. Hàng triệu liệt sỹ ngã xuống nghĩ rằng gia đình quê hương mình sẽ có an ninh, bình đẳng, phồn vinh. Nếu lãnh đạo nhìn rõ sự thật, bất công xã hội, tham nhũng tràn lan, bạo lực Nhà nước, Công an đàn áp dân, những nam nữ thanh niên yêu nước bị đánh đập giam cầm, nếu biết tự trọng, họ phải đền ơn đáp nghĩa đông đảo nhân dân đã hy sinh gấp bội đảng viên, lại chưa hề được hưởng thụ xứng đáng, trong khi các quan chức đảng viên giàu lên vô hạn. Lẽ ra đảng phải tạ lỗi với nhân dân đã không giữ đúng lời hứa “vì nhân dân quên minh”, luôn nhường dân hưởng thụ trước, luôn nhã nhặn khiêm tốn. Thậm chí đảng phải có gan nhận tội và tạ tội với nhân dân, vì đã để cho đất nước trì trệ lạc hậu toàn diện, đứng hạng chót của thế giới về tự do báo chí, tự do ngôn luận, về tôn trọng quyền con người, về vi phạm quyền công dân được Hiến pháp và các Công ước quốc tế bảo vệ, về tính công khai minh bạch tài chính, ngân sách. Lẽ ra đảng CS lúc này phải cùng nhau công nhận: ’’Mọi bất công xã hội, mọi trì trệ lạc hậu về mọi mặt, mọi bất công ghê gớm trong chênh lệch thu nhập, người dân lương thiện bị cướp đất, cướp của, hà hiếp, nạn tham nhũng tràn lan bất tri, nạn lãng phí phô trương vô độ…đều thuộc về trách nhiệm của đảng CS, trước hết là của bộ máy lãnh đạo. Chúng tôi rất ân hận xin nhận tội với toàn dân trong, ngoài nước để răn mình và sửa mình ‘’. * Blog của nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ. Bùi Tín Nhà báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài VOA. Ðối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.
  7. Chuyện Obama đến Việt Nam trong Tháng Năm Chủ tịch Cuba Raul Castro và Tổng thống Mỹ Barack Obama có cuộc họp tại Panama bên lề Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia châu Mỹ – Ảnh: Reuters Còn lâu nước Mỹ mới lãng quên chiến trường xưa. Sẽ là ngây ngô chính trị nếu đinh ninh Obama từ chối thăm Việt Nam vào Tháng Mười Một, 2015 thì sẽ chẳng bao giờ ông đặt chân lên đất nước cựu thù. Tháng Hai năm nay, sau một thời gian lặng lẽ đủ dài, quan hệ Việt-Mỹ dường như có đôi chút ấm lại bằng một thông báo của Washington về việc Tổng Thống Obama sẽ công du Việt Nam vào Tháng Năm. Một thông báo bất ngờ. Điều càng kỳ quặc là vào lần này, tin tức về cuộc công du đối ngoại cũng xuất phát từ phía Mỹ chứ không phải từ Hà Nội. Một số quan sát viên có thói quen trông ngóng tin tức từ giới chóp bu Việt Nam đã phải thất vọng: Sau Đại Hội 12 của đảng cầm quyền, Bộ Chính Trị và ngay cả Bộ Ngoại Giao vẫn nín lặng trước không chỉ “tàu lạ” đâm chết ngư dân Việt, mà còn bất lịch sự đến mức chưa có một thông báo chính thức nào trước nhã ý công du Việt Nam của nhân vật từng đón tiếp Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng quá đầy đặn tại Phòng Bầu Dục trong Tòa Bạch Ốc vào Tháng Bảy năm ngoái. Rõ là hiện tại cũng chẳng khá hơn quá khứ, về não trạng và ngay cả điều được xem là “thông lệ ngoại giao.” Không có Obama cuối 2015 Những sự kiện đối ngoại Mỹ-Việt gần nhất đã diễn ra vào năm 2015. Sau khoảng bốn tháng băng phủ nhân quyền mà đã khiến ông Tom Malinowski, phụ tá ngoại trưởng Mỹ phụ trách về dân chủ, nhân quyền và lao động, phải thốt lên: “Việt Nam không thể cứ thả một chục người này nhưng lại bắt một chục người khác để thay vào.” Đến Tháng Hai, 2015, đại sứ Mỹ tại Việt Nam nổi tiếng lời lẽ hoa mỹ là Ted Osius bất ngờ thông tin về chuyến đi rất đặc biệt của Đại Tướng Trần Đại Quang, bộ trưởng Bộ Công An, đến Hoa Kỳ. Tin tức này được ông Osius thông báo không phải trong bất kỳ cuộc họp chính thức nào, mà ở giảng đường đại học. Quả nhiên chỉ sau đó nửa tháng, Tướng Quang đi Mỹ. Một chuyến đi rất hệ trọng mà phải đến ba tháng sau, phía Việt Nam mới tiết lộ là ông tướng công an đi để “tích cực chuẩn bị cho chuyến thăm Mỹ của đồng chí Nguyễn Phú Trọng.” Đến Tháng Năm, 2015, không phải phía Việt Nam mà lại là Đại Sứ Ted Osius thông báo Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ có chuyến công du Washington. Trong khi nhiều người còn bán tín bán nghi, đến Tháng Bảy năm đó, ông Trọng đã đáp máy bay xuống sân bay quân sự Andrews, tiểu bang Maryland, gián tiếp mở màn cho chiến dịch tái cử vị trí trưởng đảng của ông trước đại hội 12 của đảng Cộng Sản. Kết quả cuộc gặp Trọng-Obama có lẽ khiến tổng bí thư Việt Nam hởi lòng hởi dạ: Không những được đón tiếp cầu kỳ quá mức tại Phòng Bầu Dục và được “thông qua” TPP, ông Trọng còn được tổng thống Mỹ hứa hẹn sẽ đến Hà Nội đáp lễ. Giai đoạn 2014-2015, tuy không được tiếp đón tổng thống Pháp, nhưng sự có mặt của một tổng thống Mỹ vẫn là quá đủ để bù đắp cho “uy tín trên trường quốc tế' của giới lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, chuyến công du trả lễ Việt Nam của Tổng Thống Obama đã không diễn ra vào Tháng Mười Một, 2015 như dự kiến. Một số tin tức cho biết phía Mỹ cảm thấy “quá thất vọng” trước thành tích nhân quyền không những không cải thiện mà còn tồi tệ hơn của Việt Nam. Những gì mà Tổng Bí Thư Trọng nói ngon trớn ở Washington về dân chủ và nhân quyền thực ra chỉ như một màn ảo thuật mà người Mỹ thấu cáy nhưng không vạch áo. Còn một nguồn cơn khác. Tháng Mười, 2015, “tứ trụ” Việt Nam tiếp đón Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Quốc Hội Việt Nam, với gần 500 mái đầu ưu tú ngoan ngoãn, thậm chí còn dành đến vài chục phút để người đồng chí nhưng còn xa mới là bạn tốt đọc diễn từ về “đại cục.” Bối cảnh này cũng vừa tạm lắng câu chuyện gây dư luận kinh hoàng về Đại Tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, “đi Pháp chữa bệnh.” Lúc này, sức căng của sợi dây mà Hà Nội đang cố đu đã vượt quá sức chịu đựng của bản thân nó. Rõ ràng là người Mỹ, vốn bộc trực hơn nhiều thói “miệng thơn thớt cười,” đã không thích thế. Ông Obama từ chối đến Hà Nội vào cuối năm 2015 là một lẽ gần như đương nhiên. Một lý do nữa chẳng mấy kích thích ông Obama đến Việt Nam vào cuối năm ngoái là cuộc xung đột quyền lực trong Bộ Chính Trị Việt Nam chưa có lối ra. Quá nhiều “kịch bản nhân sự” cùng thói đỏng đảnh đối ngoại “nàng hầu muốn trở thành phu nhân” mà đã khiến cho mọi dự đoán đều tối mò. Nhân vật tổng bí thư cùng dàn lãnh đạo mới chỉ được nhận ra khi nào khán phòng đại hội 12 ra rả tiếng vỗ tay. Hết thời đu dây Còn bây giờ, chính trị Việt Nam vừa hú hồn trải qua một cung đường gai góc, dù chẳng biết bao giờ mới hết mùa bão tố. Cuối cùng, vẫn lại là Nguyễn Phú Trọng - người mà Obama đã tiếp đón một cách hy vọng tại Phòng Bầu Dục vào Tháng Bảy năm ngoái. Dường như người Mỹ đã “dự cảm” đúng. Mặc dù trước đại hội 12, ông Nguyễn Tấn Dũng vượt hẳn ông Trương Tấn Sang và ông Nguyễn Phú Trọng trong những cuộc thăm dò xác suất trúng tổng bí thư, nhưng người cuối cùng trên chiến trường mới là kẻ chiến thắng. Hy vọng chiến thắng của ông Obama là có cơ sở. Thành tích lớn nhất của Việt Nam hoàn toàn không phải là cải thiện nhân quyền, mà là cải hóa với gia tốc ngày càng nhanh hơn quan hệ “giao lưu quân sự” với Hoa Kỳ - yếu tố mà Việt Nam tha thiết hơn lúc nào hết để giảm bớt nguy cơ bị người bạn vàng Bắc Kinh chực chờ nuốt sống. Tháng Hai năm nay, sau khi lần đầu tiên dám mở miệng tuyên bố về tàu Mỹ “đi qua vô hại” ở vùng biển Hoàng Sa, Việt Nam lại cử Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ dự hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN với thông điệp đề nghị Mỹ tăng cường sự hiện diện hơn nữa ở Biển Đông. Hoàn toàn có thể cho rằng thông điệp ấy không phải do Thủ Tướng Dũng sáng tác ra, mà là đảng nói. Lá bài của Việt Nam, dù bị giấu kín lâu nay, cuối cùng vẫn tự nói ra thứ chẳng đặng đừng phải nói. Cuối cùng thì giới lãnh đạo Việt Nam đã không còn đủ kiên nhẫn và đủ sức để đu dây giữa Mỹ và Trung Quốc. Rất dễ té lộn nhào. Logic Việt-Mỹ cũng theo đó phát triển. Tính bất ngờ nhưng đầy tự tin đến mức chắn chắn của Mỹ khi thông báo về chuyến thăm Việt Nam của Tổng Thống Obama vào Tháng Năm đã cho thấy đây là một kế hoạch có tính toán, đã được chuẩn bị trước và chỉ chờ “kết quả” xong dàn lãnh đạo mới của Việt Nam thì sẽ tiến hành. Cũng như thông báo mới nhất của Tòa Bạch Ốc về chuyến công du Tháng Ba tới đây của tổng thống Mỹ đến Cuba - người anh em “cùng nhau canh giữ hòa bình thế giới” của chính thể Cộng Sản Việt Nam. Tháng Ba cho Cuba. Tháng Năm cho Việt Nam. Nếu không có gì thay đổi, quan hệ Việt-Mỹ sẽ nồng ấm trở lại trong ít nhất nửa đầu năm 2016, đặc biệt về “giao lưu hải quân.” Cuộc diễn tập hải quân Nhật-Việt vào Tháng Hai tại Đà Nẵng, dù không được báo đài nhà nước thông tin một dòng nào, có thể là một cử chỉ tập sự trước khi Việt Nam dấn thân vào khối quân sự Đông Bắc Á. “Chúng tôi sẽ không đi đâu cả” Cách đây không lâu, trả lời phỏng vấn đài BBC về tình hình Biển Đông và tình huống Trung Quốc đưa phi đạn ra Hoàng Sa, về thái độ lớn giọng của Bắc Kinh đòi đuổi tàu Mỹ ra khỏi khu vực này, Đại Sứ Ted Osius lì lợm buông thõng: “Chúng tôi sẽ không đi đâu cả.” Bài cũ diễn lại. Khả năng rất lớn là Trung Quốc sẽ lộn ruột để gia tăng đột biến hoạt động gây hấn đối với Việt Nam trong năm nay. Một tàu cá của ngư dân Việt Nam bị “tàu lạ” đâm chìm khiến ba người mất tích gần đảo Hải Nam trong thời gian gần đây là một ví dụ nguy hiểm. Cộng thêm cái chết chưa hề nhắm mắt của ngư dân Trương Đình Bảy từ loạt súng AK của nhóm “người lạ” vào Tháng Mười năm ngoái, nhưng cho đến nay cơ chế “tiến hành điều tra làm rõ” của các cơ quan “vì dân” Việt Nam vẫn như câm nín, đã có đến bốn người dân Việt phải bỏ mạng trên biển, để lại nỗi đau chồng chất trên đất liền và trên cả thiên đường. Không còn lối thoát nào khác cho giới quan chức Việt đã ních đầy túi và ôm nặng tâm thế ngậm bồ hòn làm ngọt. Lời nguyền địa lý không còn là thời Trạng Trình nữa, mà sấm đang ứng nghiệm vào chính lúc này, nơi hiện thực khốn quẫn đang rất gần với địa ngục, dành cho giới lãnh đạo Việt nhu nhược. Ngay cả kẻ nào đó muốn tận tâm làm Lê Chiêu Thống cũng khó mà thoát kiếp nạn phương Bắc. Sau ba năm đu dây kể từ 2013, sự thật cho đến lúc này là Việt Nam chẳng thể dựa dẫm vào một Putin ở nước Nga xa xôi. Chỉ còn lại một nước Mỹ xa xôi hơn, nhưng không còn quá xa cách. Phạm Chí Dũng (Người Việt)
  8. Mọi người sau khi đến Nhật Bản một thời gian đều sẽ phát hiện thấy người Nhật Bản tuân thủ trật tự, nho nhã, lễ độ… Tố chất tốt đẹp của người Nhật Bản thực sự khiến người ngoại quốc thán phục! Khi tìm hiểu nguyên nhân, người ta phát hiện rằng những tố chất ấy ngoài việc chịu ảnh hưởng từ gia đình, giáo dục của nhà trường, hoàn cảnh xã hội ra còn có yếu tố rất quan trọng đó là sự nghiêm khắc của pháp luật. Nhiều người sẽ khó tin rằng những hành động mà nhiều người cho là nhỏ như chen ngang, ép người khác uống rượu, leo cột điện…đều sẽ phải chịu hậu quả không thể lường được! Dưới đây xin kể ra một số hành vi “thói quen” thường thấy ở một quốc gia sẽ bị xử phạt như thế nào nếu xảy ra ở Nhật Bản: 1. Chen ngang Pháp luật Nhật Bản quả thực “yêu thích” quản việc nhỏ! Nếu như bạn đến Nhật Bản mà dám “chen ngang” khi xếp hàng thì sẽ phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Căn cứ khoản số 13, điều 1 luật “phạm tội nhẹ nước Nhật Bản” quy định: Căn cứ tình tiết nặng nhẹ hành vi chen ngang khi xếp hàng, người vi phạm có thể bị phạt tiền cao nhất lên đến 1 triệu yên (gần 200 triệu vnđ), thậm chí bị giam giữ trong 24 tiếng. 2. Nôn ọe trong taxi Pháp luật Nhật Bản xử lý trong tình huống này là: Không quan tâm người vi phạm uống bao nhiêu nhưng đã nôn ọe trong xe taxi là có lỗi và trái pháp luật. Người vi phạm đã phạm vào lỗi “vi phạm hợp đồng” trong luật dân sự nước Nhật Bản nên sẽ bị phạt tiền và bồi thường phí tổn dọn xe cho chủ xe. 3. Đánh nhau nơi công cộng Pháp luật về an toàn nơi công cộng của Nhật Bản quy định, vô luận là vì nguyên nhân gì mà thông qua bạo lực để tiến hành giải quyết thì đều phạm tội và sẽ bị chịu hình phạt tù từ 6 tháng đến dưới 2 năm. 4. Nhổ đờm tại công viên “Luật phạm tội nhẹ nước Nhật Bản” quy định: Nếu nhổ đờm tại công viên hoặc nơi công cộng khác mà bị bắt thì sẽ bị phạt tiền từ 1000 yên (gần 200 nghìn vnđ) cho đến 10.000 yên (khoảng 2 triệu vnđ) và ghi vào hồ sơ của cá nhân phạm tội. Điều đáng sợ là, trong hồ sơ chỉ ghi “có” vào cột “phạm tội” mà không ghi rõ là phạm tội gì cho nên rất có thể sẽ bị người khác nghĩ là bị tội nặng như ăn cắp, sát nhân… 5. Tự ý đi đến Nam Cực mà chưa được phép Nam Cực được xem là thiên đường cuối cùng trên địa cầu” nên nhiều người Nhật Bản muốn đến. Người Nhật Bản lại là người rất chú ý đến bảo vệ môi trường nên pháp luật về bảo vệ môi trường ở Nam Cực của Nhật Bản quy định: Công dân Nhật Bản muốn đi đến Nam Cực phải gửi đơn lên cơ quan có liên quan để trình bày, xin phép. Sau khi trải qua 4 tiết học của khóa huấn luyện về “Kiến thức liên quan đến bảo vệ môi trường ở Nam Cực” và phải thi đỗ thì mới được đi Nam Cực. Nếu tự ý đi sẽ bị phạt tiền, cao nhất là 500.000 yên (gần 100 triệu vnđ). 6. Vứt rác không đúng thời gian quy định Ở một số địa khu của Nhật Bản, cơ quan quản lý rác của chính phủ có quy định phân loại: Thứ 2 là ngày thu rác có thể cháy, thứ ba là ngày thu rác không thể cháy, thứ 4 là ngày thu rác chai, lọ… Nếu như vứt rác không đúng theo quy định đã phân loại mà bị bắt được sẽ bị coi là người phạm pháp và bị xử phạt. Pháp luật về rác của Nhật Bản quy định: Căn cứ vào tình tiết nặng hay nhẹ mà có thể bị phạt tù cao nhất là 5 năm và phạt tiền cao nhất đến 10 triệu yên (gần 2 tỷ vnđ). 7. Che dấu tiền được trả lại thừa Tại Nhật Bản, nếu như bạn phát hiện ra mình được người bán trả lại tiền thừa nhiều hơn số tiền đáng ra được nhận mà không lên tiếng thì sẽ phạm vào tội lừa gạt trong luật dân sự Nhật Bản. Căn cứ tình tiết nặng hay nhẹ mà bị phạt tiền hoặc bị giam giữ. 8. Leo cột điện Luật dân sự Nhật Bản quy định, muốn leo lên cột điện làm việc gì đó phải được sự chấp thuận của “người quản lý kỹ thuật điện quốc gia”. Nếu như chưa được sự đồng ý mà tự tiện leo lên cột điện sẽ bị khép vào tội “hoạt động trái với trình độ chuyên môn” được quy định trong luật dân sự và bị phạt tiền. Trường hợp nghiêm trọng như gây mất điện phạm vi lớn thì không chỉ bị phạt tiền mà còn phải bồi thường tổn thất kinh tế do mất điện gây ra và bị giam giữ dưới 1 năm. 9. Lái xe khi say rượu Nhân khẩu ở Nhật Bản đông mà đường lại hẹp. Uống rượu say mà lái xe đã trở thành vấn đề nan giải của xã hội. Pháp luật quy định về vấn đề này không cụ thể. Nhân viên chấp pháp sẽ căn cứ vào biểu hiện của người lái xe sau khi uống rượu như thế nào. Ví dụ như, có lái xe được bình thường hay không, đứng có vững không, có đi được thẳng đường không…, để phán đoán tương ứng. Tùy theo mức độ nặng nhẹ, người điều khiển xe khi say rượu sẽ bị phạt cao nhất là 5 năm tù giam hoặc 1 triệu yên (gần 200 triệu vnđ). Người điều khiển xe có mùi cồn sẽ bị phạt 3 tháng tù giam hoặc 50.000 yên (gần 10 triệu vnđ)… Tùy theo nặng nhẹ mà bị thu bằng lái xe, hủy bằng lái xe. Nếu lái xe khi say rượu mà gây tai nạn chết người thì phải chịu hình phạt tù và phạt tiền rất cao. 10. Ép rượu Nếu bạn đến Nhật Bản, đừng mang theo thói quen mời rượu, ép rượu bởi vì căn cứ điều 2, pháp luật về “phòng ngừa say rượu gây rối loạn an ninh trật tự” quy định: Hành vi cưỡng ép người khác uống rượu sẽ bị phạt giam giữ 48 tiếng và phạt tiền cao nhất đến 10.000 yên (gần 2 triệu vnđ). Nếu như người bị ép rượu mà say rượu gây chuyện thì người ép rượu cũng bị tội. Theo NTDTV Mai Trà biên dịch (Đại Kỷ Nguyên VN)
  9. Vụ scandal giữa ông Giang Trạch Dân và bà Tống Tổ Anh từng một thời gây ồn ào dư luận. (Ảnh: Internet) Trước đây, một phóng viên của tập đoàn truyền thông Tri Âm (Zhiyin) ở Hồ Bắc từng có hai đoạn băng ghi âm liên quan đến bà Tống Tổ Anh, sau đó Chủ tịch Hội đồng quản trị Hồ Huân Bích vì muốn che giấu sự việc đã ép phóng viên kia phải nộp lại hai đoạn băng ghi âm. Ông Hồ Huân Bích gần đây đã bị cách chức và khai trừ Đảng tịch vì tội “vi phạm kỷ luật nghiêm trọng.” Tập đoàn Truyền thông Tri Âm là công ty nhà nước thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hồ Bắc, có vốn đăng ký 200 triệu Nhân dân tệ. Hiện đơn vị chủ quản được chuyển cho Sở Tuyên truyền tỉnh Hồ Bắc. Tháng 8/2014, ông Hồ Huân Bích bị miễn nhiệm chức Bí thư Đảng kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Tri Âm. Tuy nhiên ông Hồ Huân Bích vẫn được phụ trách Ban Biên tập, đồng thời tham gia công tác tại Tạp chí trực thuộc là Tri âm Mạn khách, một tờ báo quan trọng khác của Tập đoàn. Cách đây chưa lâu, Tri âm Mạn khách bị kiểm tra sổ sách. Vài ngày trước, ông Hồ Huân Bích lại bị Ủy ban Kỷ luật Trung Quốc bắt giữ. Ngày 25/2 vừa qua, báo Tân Kinh ở Trung Quốc Đại Lục đưa tin, khoảng 15 giờ ngày 25/2, Tập đoàn Truyền thông Tri Âm đã tổ chức buổi họp lãnh đạo về việc cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Hồ Huân Bích bị loại khỏi hệ thống công chức và khai trừ Đảng tịch. Bà Tống Tổ Anh tiết lộ mối tình với ông Giang Trạch Dân khi bị say rượu Theo sách “Hổ mẹ Tống Tổ Anh” xuất bản ở Hồng Kông, “trùm xã hội đen” trong giới showbiz ở Trung Quốc Đại Lục là ông Tăng Khánh Hoài, em ruột ông Tăng Khánh Hồng (cựu Ủy viên thường trực Bộ chính trị), còn Đạo diễn điện ảnh Triệu An là người giúp việc đắc lực của ông ta. Tăng Khánh Hoài phụ trách quản lý điện ảnh tại Bộ Văn hóa Trung Quốc, thường bỡn cợt tán tỉnh những nữ minh tinh trong giới văn nghệ, còn Triệu An thường xuyên giúp ông ta chọn mỹ nữ. Nữ diễn viên nào muốn diễn vai chính, “phải thông qua Tăng.” Trước đây, bà Tống Tổ Anh từng liên tục 18 năm liền được lên chương trình “Đêm xuân” của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, nguyên nhân của việc này là do mối “quan hệ đặc biệt” với ông Tăng Khánh Hoài. Sau này Tăng Khánh Hoài lại tặng Tống cho người anh trai là ông Tăng Khánh Hồng. Thế nhưng cuối cùng bà Tống Tổ Anh lại vừa mắt ông Giang Trạch Dân, vì thế ông Tăng Khánh Hồng phải nhẫn nhục từ bỏ. Xem thêm: Sự đồi trụy của quân đội ĐCSTQ dưới thời ông Giang Trạch Dân cầm quyền Báo Nhân dân (Renminbao) ở hải ngoại từng dẫn ý kiến của một người làm việc tại Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc tiết lộ, mọi người ở Trung Quốc Đại Lục đều biết vụ bê bối giữa ông Giang Trạch Dân và bà Tống Tổ Anh, nhưng vấn đề là cần kiểm chứng từ chính miệng của bà Tống nói ra. Năm 2001, trong một lần mọi người hùa nhau phải làm cho bà Tống Tổ Anh bị say để moi thông tin từ chính miệng bà Tống, nhưng tửu lượng của bà Tống không vừa, uống mãi chưa say. Thế nhưng do quá hứng thú, bà Tống đã đem câu chuyện của mình với ông Giang Trạch Dân kể ra, khi ra về thì vừa cười ha hả vừa nói: Tôi còn muốn kể nữa, muốn kể nữa, hahaha… Ông Triệu An là đạo diễn, sau khi nghe bà Tống Tổ Anh bảy tỏ nỗi lòng liền ghi lại, sau đó câu chuyện này ngày càng được nhiều người biết. Thời đó, nhà văn Trương Tuấn Dĩ xem ông Tăng Khánh Hoài và ông Triệu An là “huynh đệ tri âm,” nhờ hối lộ ông Triệu An và có chống lưng từ Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc nên ngày càng nổi như cồn. Qua hai năm “hợp tác,” Trương và Triệu xảy ra mâu thuẫn vì lợi ích. Sau đó ông Trương Tuấn Dĩ muốn trả thù ông Triệu An nên tung tin ông Triệu An là người đã đi rêu rao về mối tình của ông Giang Trạch Dân và bà Tống Tổ Anh. Từ tháng 10 đến tháng 11 năm đó, ông Trương Tuấn Dĩ tập hợp địa chỉ của hơn trăm vị lãnh đạo các ban ngành quan trọng của Trung ương và gửi thư nặc danh. Sau sự việc, ông Triệu An bị cơ quan an ninh bắt điều tra, nhưng vì không ai dám tìm bà Tống Tổ Anh xác thực thông tin, vì thế mà ông Triệu An được tha ra. Ông Trương Tuấn thấy ông Triệu An vô sự thì không cam tâm, trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 10/2002 lại cho in hơn 200 thư nặc danh về bê bối giữa ông Giang Trạch Dân và bà Tống Tổ Anh, phát tán qua đường bưu điện. Câu chuyện sau lộ ra, gây kinh động đến ông Giang Trạch Dân. Chứng cứ scandal Giang Trạch Dân và Tống Tổ Anh Nhưng vì chuyện này mà những bê bối của ông Trương Tuấn Dĩ cũng bị bại lộ. Câu chuyện cũng làm liên lụy đến ông Hồ Huân Tích. Sự việc bắt đầu từ chuyện có người gửi bài viết cho Tạp chí Tri Âm, viết về ông Trương Tuấn Dĩ với tiêu đề “Trương Tuấn Dĩ: Người cha của trẻ mồ côi.” Tháng 5/2002, phóng viên Trang Hiểu Bân của Tạp chí Tri Âm đã đến Bắc Kinh thẩm định tính xác thực của bài viết và gặp sinh viên An Hưng Long ở Đại học Sư phạm Bắc Kinh để xác thực. Không ngờ, An Hưng Long cho biết, đây không phải sự thực! Anh ta không phải trẻ mồ côi. Thế là sau khi phóng viên Trang Hiểu Bân ghi âm câu chuyện do sinh viên An Hưng Long kể lại, đã viết một bài nói về người học trò “mồ côi” này than vãn về mưu kế hãm hại đạo diễn Triệu An của “cha nuôi” Trương Tuấn Dĩ. Vào ngày 19/8/2002, sinh viên An Hưng Long đã bất ngờ đi cùng với nhóm phóng viên của Tân Hoa xã đến Tạp chí Tri Âm kiện phóng viên Trương Hiểu Bân, nói là anh ta bôi nhọ ông Trương Tuấn Dĩ, yêu cầu phóng viên này và Tạp chí Tri Âm phải công khai xin lỗi, nếu không anh ta sẽ uống thuốc sâu tự tử ngay tại Tạp chí Tri Âm. Theo sách “Hổ mẹ Tống Tổ Anh,” khi đó ông Trương Tuấn Dĩ đứng ở cửa sổ lầu 3 của khách sạn đối diện Tạp chí Tri Âm chăm chú quan sát màn kịch. Còn trong phòng làm việc của ông Hồ Huân Bích, Phó Trưởng ban Tuyên truyền tỉnh Hồ Bắc đợi ông Hồ xử lý việc này. Nghe nói, Phó Trưởng ban này mới sáng sớm ngủ dậy thì nhận được điện thoại của Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương yêu cầu phải lập tức tới gặp ông Hồ Huân Bích. Cuối cùng, phóng viên Trang Hiểu Bân bị ép phải đưa ra hai đoạn băng ghi âm phỏng vấn kéo dài gần 4 tiếng, nhưng chỉ chọn mười mấy phút quan trọng nhất mở cho Phó Ban Tuyên truyền và ông Hồ Huân Bích nghe. Đoạn ghi âm này có nhắc đến tên bà Tống Tổ Anh, và nội dung cũng liên quan đến cái tên này, làm cho Phó Trưởng ban Tuyên truyền Lệnh Trương và ông Hồ Huân Bích thất kinh. Sau đó, ông Hồ yêu cầu phóng viên Trang giao lại hai đoạn băng ghi âm cho ông ta giữ. Nhưng phóng viên Trang chỉ đồng ý giao bản sao chép cho ông Hồ. Sau sự việc, Trang Hiểu Bân thường xuyên bị phóng viên Tân Hoa xã là Trương Cẩm Hoa gọi điện thoại cảnh cáo, đe dọa, yêu cầu phải công khai thừa nhận đã viết thông tin không đúng sự thật, phải công khai xin lỗi ông Trương Tuấn Dĩ, đồng thời còn lấy đứa con chưa đầy 3 tuổi của Trang ra uy hiếp. Thấy Trang từ chối, cuối cùng kẻ uy hiếp yêu cầu dùng 50 nghìn Nhân dân tệ để mua lại hai đoạn băng ghi âm này. Ông Hồ Huân Bích cũng yêu cầu phóng viên Trang Hiểu Bân lập tức giao lại hai đoạn băng ghi âm để niêm phong tại tòa soạn Tạp chí Tri Âm. Phóng viên Trang Hiểu Bân tuy từ chối yêu cầu, nhưng cuối cùng vẫn bị ép phải giao hai đoạn băng ghi âm cho ông Hồ Huân Bích. Sau vụ scandal, ông Giang Trạch Dân vô cùng tức giận. Cuối cùng, ông Triệu An bị xử tù giam 10 năm, “quái kiệt” Trương Tuấn Dĩ thì bị tù 6 năm. Tội danh của hai người này khiến nhiều người cảm thấy buồn cười: Triệu An bị tội vì “nhận của Trương Tuấn Dĩ 610 ngàn Nhân dân tệ” (khoảng 2 tỷ VNĐ), còn tội của Trương Tuấn Dĩ là hối lộ Triệu An và “nói xấu lãnh đạo quốc gia.” Theo Secretchina Tinh Vệ biên dịch (Đại Kỷ Nguyên VN)
  10. Cách nay một khóa quốc hội, anh Cảnh Bình tự ứng cử, rất chính thống, lên cả các báo nhà nước trả lời phỏng vấn rất chững chạc. Kết quả là, sau hiệp thương, anh Bình trở thành nguyên ứng cử viên quốc hội. Năm nay, tôi nghĩ anh Quang A và các anh chị khác cũng sẽ rơi tự do ở hiệp thương. Vòng hiệp thương có lẽ khá bất ngờ, hoặc rất dị, giống như trường hợp anh Lê Công Định (mà tôi chỉ được nghe kể lại). Việc tự ứng cử rất hay, thú vị, nôm na là thuốc bổ cho các hoạt động của xã hội dân sự. Nhưng nó có thực sự là đấu tranh chính trị không thì còn phải suy nghĩ tiếp. Tôi cho rằng, những người như anh Quang A khi ra ứng cử và có cương lĩnh tranh cử tốt đến mấy, thì anh ấy cũng khó mà đại diện cho một số đủ đông quần chúng (cử tri) để có được nhiều phiếu (theo đúng nghĩa cử tri bỏ phiếu cho người họ muốn đại diện cho mình). Nói chung cá nhân không nên đại diện cho ai cả. Đại diện tốt nhất cho số đông, phải là chính đảng. Tức là, khi tôi muốn có ai đó đại diện cho tôi, thì “ai đó” phải là một chính đảng, với tư tưởng, đường lối, cương lĩnh chiến lược sách lược tương đồng nhất với suy nghĩ, tình cảm và mong muốn của tôi. Rồi thì cái đảng đấy sẽ cử các cá nhân khác nhau vào quốc hội (cá nhân không đại diện được cho ai, nhưng lại đại diện được cho Đảng, thế mới tài). Khi trong quốc hội có (nhiều) nghị sĩ thuộc cái đảng đại diện cho tôi, họ mới thực sự có công cụ để bảo vệ quyền lợi cho những người như tôi, để biến kỳ vọng của tôi thành sự thực. (Một cá nhân nói chung là khó hoặc rất ít thay đổi bản thân, nhưng một chính đảng thì có thể thay đổi để thích nghi với thực tiễn, nhất là khi phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ các đảng khác. Thời còn hoạt động lén lút, ĐCS cũng phải thay đổi liên tục để cạnh tranh thu phục lòng dân với Quốc Dân Đảng và Đại Việt ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, họ cũng không ngần ngại sử dụng các biện pháp bá đạo để làm hại đảng đối thủ. Đây là một lý do cá nhân rất khó đại diện cho quần chúng, nhất là quần chúng vina ăn xổi ở thì). Tất nhiên, ở Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng là ĐCS. Nếu bạn không chọn đảng này làm đại diện cho mình, thì bạn tịt. Ngày xưa, thời Pháp, chúng cũng cấm các chính đảng yêu nước hoạt động. Tất cả các Đảng đều phải hoạt động bí mật, chịu sự săn lùng của mật thám Pháp. ĐCS thậm chí còn thành lập ở hải ngoại (Hongkong), đăng ký hoạt động ở hải ngoại (Trung Hoa), rồi tuồn người về nước hoạt động cách mạng. Nhiều đảng viên, không chỉ của ĐCS, mà còn của Đại Việt, Quốc Dân Đảng …bị mật thám bắt và nhốt vào tù, hoặc xử tử. Kể cả ở Nam Kỳ, một thành phố Pháp, nơi luật pháp văn minh như ở nước mẹ Đại Pháp, thì các cá nhân và phong trào đấu tranh chính trị rất hiền lành, chủ yếu do du học sinh từ Pháp trở về (Nguyễn An Ninh, Đệ Tứ) lãnh đạo, các cá nhân này cũng bị bắt và nhốt vào Khám Lớn hay đầy ra Côn Đảo. Mật thám Pháp hoạt động bắt bớ rất kinh khủng (và cũng rất giỏi). Các cơ sở Đảng của ĐCS ở Hà Nội bị Pháp phá liên tục, làm Hoàng Văn Thụ phải nai lưng ra xây đi xây lại, cho đến khi chính mình cũng bị bắt và xử tử. So với bây giờ thì an ninh Việt Nam còn hiền lành chán so với mật thám Pháp. Hồi 194x Việt Nam chưa tới 20 triệu dân mà số tù chính trị có lúc lên tới 20 ngàn người, lúc thấp cũng là 8 ngàn người. Đây chính là một trong những lý do ĐCS và sau này là Việt Minh được ủng hộ rất mạnh. Còn bây giờ dân số gần 100 triệu mà tù nhân lương tâm chắc chưa tới 100 người. Có thể tham khảo tới mùa xuân Arap, đằng sau phong trào cách mạng FB này, cũng không thể phủ nhận rất nhiều người dân có họ hàng hoặc người quen bị bắt do liên quan đến Hồi giáo bằng hữu. Những con số rất trên đây đáng để suy nghĩ. Ít nhất là đáng suy nghĩ hơn số thú chết ở Safari. Trong lúc nghĩ chưa ra, thì ta nằm nghĩ tiếp, hehehe. PS: Ngày xưa liên lạc khó khăn, phải mất rất nhiều thời gian để hẹn hò, rồi để đi đến gặp nhau. Cho đến khi gặp nhau người ta đã suy nghĩ rất kỹ, rất chín rồi mới nói chuyện, thảo luận. Gặp nhau khó nên người ta gặp lâu, ăn ở nhà nhau, gác chân lên nhau vừa nói chuyện vừa ngủ (hồi đó chưa có đam mỹ). Nên những gì họ bàn đều sâu sắc và kỹ lưỡng hơn bây giờ rất nhiều. Bây giờ có khi chỉ chat fb với nhau dăm câu là rủ nhau hành động rồi. Nguyễn Thái Học và Nhượng Tống (Việt Nam Quốc Dân Đảng) ngày xưa cũng thế, tiếc là không thành công, bị Pháp nó chém gần hết. Anh Học và anh Trân (Hoàng Phạm Trân/ Nhượng Tống) cũng là nhân vật trong “Ba Mùa Yêu“. Quý vị rất nên mua về đọc. (Blog 5xu)
  11. Rất cảm ơn các bạn đã hỏi và tôi rất xin lỗi không trả lời riêng từng bạn được nên tổng hợp lại ở đây (cho đến 11 giờ ngày 25-2-2016) cho các câu hỏi liên quan trực tiếp đến tôi. - Bạn Le Minh Nhon hỏi nếu trúng cử tôi có dám bảo trợ 1 luật nào đó, ví như luật tự do báo chí? Trong cương lĩnh tôi đã nêu rõ: “xây dựng thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân thực thi các quyền con người và các quyền hiến định của mình, cụ thể là hủy bỏ mọi điều khoản trong Hiến Pháp và luật hiện hành vi phạm các quyền con người, vi phạm các luật quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và có nghĩa vụ thi hành; xây dựng luật về đảng, luật biểu tình, luật về quyền tự do lập hội, luật về quyền tiếp cận thông tin, luật về quyền tự do báo chí, xuất bản, tín ngưỡng, … (chứ không phải luật để quản lý, cản trở các quyền tự do đó); đảm bảo sự độc lập và kiểm soát lẫn nhau của ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp);…” cho nên chắc chắn, nếu trúng cử tôi sẽ sử dụng quyền của mình để bảo trợ không chỉ cho 1 luật mà hàng loạt luật (có thành công hay không thì chưa rõ, nhưng đại biểu có thể làm việc đó). - Bạn Minh Đỗ Quốc hỏi “điều gì khiến ông không ra tự tranh cử? tại sao? CẢM NHẬN của ông về vị trí, vai trò trong tương lai của QHVN ?”. Tôi chủ trương “biến quyền hão thành quyền thật” một cách từ từ và quyền ứng cử vào quốc hội là một quyền như vậy. Nhiều người đã sử dụng quyền này và đa số đã bị loại, cho nên có thể nói đó là quyền hão. Nếu rất nhiều người cứ thế thực thi quyền của mình (dù không thành) vẫn sẽ góp phần nâng cao dân trí và quan trí và áp lực để thay đổi để góp phần biến “quyền hão” thành quyền thực. Tôi nghĩ QHVN vẫn chưa có thực quyền, song đã có những thay đổi nhất định và QHVN đang đi theo hướng ngày càng được cải thiện và tôi hy vọng trong tương lai nó sẽ phải là một QUỐC HỘI đích thực và tôi muốn cổ vũ các bạn hành động để cho QUỐC HỘI được như vậy bằng cách ứng cử, góp ý, lên tiếng, gây sức ép 24/7 một cách xây dựng. Bạn hãy đừng CHỊU THUA, chịu thua thì chắc chắn LÀ THUA, hãy làm bất cứ việc gì nhỏ để thúc đẩy sự phát triển. Chắc mình, NQA, nhiều tuổi hơn bạn (nếu ít hơn thì xin lỗi nhé) và quỹ thời gian của bạn lớn hơn, đừng bi quan. Việc đấu tranh cho dân chủ là rất khó khăn, gian khổ và dài cho nên càng phải kiên trì và luôn lạc quan. Hãy đặt xà thâm thấp, vừa sức mình để nhảy và cứ thế nâng xà cao dần, đạt kết quả nho nhỏ cải thiện được chút xíu, hãy vui với kết quả đó và làm cho người khác vui lây và làm như bạn. Dân nào chính quyền ấy, nếu rất đông người nhận ra quyền của mình và cứ thế thực thi, đó là sức mạnh vô biên mà những người không quyền lực như chúng ta đang có, đừng bỏ phí quyền lực ấy và đừng bao giờ chịu thua bạn ạ. - Bạn Than Van Quan bảo tôi “70 rồi, nghỉ thôi”. Cảm ơn lời khuyên của bạn, nhiều người cũng bảo mình thế. Đầu tiên, không có giới hạn tuổi nào cho việc ứng cử (vì giới hạn là vi phạm các quyền con người và các nhà làm luật Việt Nam biết rõ điều đó). Thứ hai, tôi cảm thấy mình còn khỏe về thể chất (chắc bạn biết cả chục bạn trẻ chạy theo sau mà không cản được mình suốt quãng đường đi bộ 10 km đến một hội thảo; họ trẻ, khỏe mình nghĩ theo được các bạn ấy) và về tinh thần cho nên KHÔNG MUỐN nghỉ. Cảm ơn lời khuyên. - Bạn Vân Trường bình luận “Với chế độ này, liệu anh và bác có bị lừa không ạ. Tôi chỉ lo chúng ta mắc bẫy và cuối cùng ko đem lại lợi ích gì cho nhân dân cả”. Mình đồng cảm với bạn, nhưng xin trả lời ngay KHÔNG, KHÔNG MẮC BẪY. Chúng ta tận dụng mọi cơ hội để thúc đẩy một quá trình học tập dân chủ, đó là mục tiêu chính của tôi và tôi tin nếu rất nhiều người làm theo cách này sự thay đổi sẽ đến nhanh chứ không chậm, còn không làm gì hay chỉ than vãn thôi thì ngàn năm nữa vẫn thế! - Bạn Dương Vĩnh Tuyến chất vấn, “Các Vị sẽ và phải xử lý thế nào khi bị Tổ chức hiệp thương buộc các Vị phải rút tên khỏi danh sách ứng viên?” Khả năng đó rất cao! Chúng tôi đang hỏi họ, “hiệp thương, là ‘họp thương lượng về những vấn đề chính trị, kinh tế có liên quan chung tới các bên’ [từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng] cho nên quý vị [Mặt trận] không thể họp riêng, chúng tôi không rút tên, họ tự ý rút thì cái “dân chủ đến thế là cùng” của họ bị lột mặt nạ, tính chính đáng của họ bị xói mòn. Và chúng tôi sẽ dùng mọi biện pháp pháp lý để chất vấn họ về việc “hiệp thương” ấy, đó cũng lại là cơ hội để cho chúng ta học. Còn nhiều cách khác nhưng chưa tiện tiết lộ vội, bạn cứ chú ý theo dõi. - Bạn Anh Dũng hỏi về biển Đông và mối quan hệ với TQ. Trong cương lĩnh tôi ghi rõ, Việt Nam nên có quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc (đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư TQ tại Việt Nam như tất cả các nhà đầu tư nước ngoài khác, đảm bảo mọi quyền lợi của bà con người Việt gốc Hoa như của tất cả những người Việt nam khác, giữ quan hệ láng giềng tốt). Phải cố gắng giải quyết mọi vấn đề bằng phương pháp hòa bình và pháp lý. Anh Lê Trung Tĩnh và tôi đã kêu gọi lấy chữ ký đòi Chính quyền Việt Nam kiện TQ về vấn đề biển Đông và tôi đã gửi bản kiến nghị với nhiều ngàn chữ ký đó cho nhà chức trách. Hợp tác, liên minh với các nước khác nhất là các cường quốc có lợi ích cốt lõi ở biển Đông để ngăn chặn sự bành trướng của TQ là việc làm cấp bách. (Có, là câu trả lời bạn Hung Lam). - Bạn Chinh Luong hỏi chúng tôi quan tâm đến vấn đề gì nhất trong thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay? Tôi quan tâm nhất đến nạn tham nhũng và sự ô nhiễm môi trường (kể cả an toàn thực phẩm). - Ls. Hà Huy Sơn, “Có cần ban hành Luật quy định về việc Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội trong kỳ QH 14 không?” KHÔNG, tuyệt nhiên KHÔNG, thay vào đó là luật về tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị và ĐCSVN phải tuân thủ luật đó, không có chuyện luật về Đảng như một số người mong muốn. - Bạn Xuân Thuần Nguyễn hỏi về QUỐC HỘI có đuổi đại biểu “vô bổ” hay không? Theo tôi, Quốc hội KHÔNG có quyền đó. Dân bầu lầm thì Dân chịu (đó là nói về bầu thật sự, và phải thúc đẩy để dân bầu thực sự chứ không phải “đảng CSVN cử dân bầu”). Cảm ơn các bạn đã hỏi. N. Q. A (FB Nguyễn Quang A)
  12. Tuần qua, đọc trên mạng thấy thiên hạ phê phán, kêu gọi tẩy chay hàng loạt cuốn sách đồ sộ về Đặng Tiểu Bình. Giật mình thấy, nếu có quá nhiều nhà xuất bản Việt Nam rất khách quan vô tư dịch và in nguyên xi sách của Tàu ca ngợi nhân vật nổi tiếng này, thì sao lại không có đến một cuốn sách nào của tác giả Việt Nam nghiên cứu về Đặng Tiểu Bình, trong đó có câu chuyện mà kẻ xâm lược, kẻ giết người hàng loạt Đặng Tiểu Bình xua quân tấn công toàn tuyến biên giới Bắc Việt Nam, để "dạy cho Việt Nam một bài học"? Không ai nói lại hay được phép nói lại sự thật đẫm máu năm 1979? Tôi nhớ lại không khí căng thẳng tại cuộc họp điểm báo tháng 2 năm 1997, khi Đặng Tiểu Bình tạ thế, tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn đã có bài viết về tư tưởng cải cách kinh tế của nhân vật, đồng thời nói rõ Đặng Tiểu Bình LÀ KẺ ĐÃ PHÁT ĐỘNG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM. Tiếp nhận phê phán nặng nề từ Ban Tuyên huấn, Tổng Biên tập Võ Như Lanh điềm tĩnh trả lời, đó là sự thật lịch sử và tôi là nhà báo Việt Nam, tôi có trách nhiệm nhắc bạn đọc của tôi về điều đó. Sau này, trong bài báo tưởng nhớ anh (vẫn còn trên mạng), ban biên tập TBKTSG còn nhắc quan điểm này: “Anh cho rằng một khi đã tin tưởng điều gì là đúng và cần thiết phải thông tin thì hãy thông tin, sau khi đã cân nhắc đầy đủ lợi hại và sẵn sàng đón nhận những khó khăn có thể đến. Như khi Đặng Tiểu Bình qua đời vào tháng 2-1997, anh đã chủ trương đưa tin nói rõ cả những mặt sáng và mặt tối của nhân vật này”. Nói chuyện Đặng Tiểu Bình, không thể không buồn cười nhớ tới nhân vật được biết đến nhiều hơn và ái mộ rộng khắp Việt Nam: vua Càn Long. Nhiều tháng, năm, truyền hình Việt Nam chiếu liên tu bất tận những tập phim về vị “minh quân xuất chúng” Càn Long khiến khán giả Việt yêu quí say mê, rồi yêu luôn tài tử Trương Thiết Lâm, Trương Quốc Lập. Nhiều ký sự về đời tình ái của hai tài tử này một dạo bán rất chạy, giăng đầy mặt báo . Duy có những điều về vua Càn Long liên quan trực tiếp tới Việt Nam thì hầu như rất xa lạ, hầu như sau này chưa thấy báo nói tới. Tháng 7 năm 1788, Lê Chiêu Thống sai người sang Trung Quốc cầu viện.. Cuối năm 1788, chính vua Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy hơn 29 vạn quân, hộ tống Lê Chiêu Thống về Việt Nam, vào chiếm đóng Thăng Long. Đúng ngày 22 tháng 12 năm 1788, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Đêm 30 Tết âm lịch, quân Tây Sơn đã đánh tan 29 vạn quân Thanh, và trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu - 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân bỏ chạy, tổn thất lớn. Giật mình, 1789-1979. Vậy là từ khi vua Càn Long định chiếm Đại Việt bị thất bại, cho đến cuộc xâm lược của Đặng Tiểu Bình là tròn 190 năm. Những mảnh lịch sử Việt Nam liên hệ đến họ đã được nói rõ ràng, công bằng đến đâu? Chuyện đó cũ, còn chuyện này mới tinh. Hôm qua, tờ Petrotimes đưa tin: Nhân dân Nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc hôm 25/2 có bài kêu gọi quân đội nước này hãy “dạy cho Mỹ một bài học” nếu Washington tiếp tục có những hành động táo bạo. Tờ báo cũng chung gốc với Nhân Dân Nhật Báo là Hoàn cầu Thời báo thì rổn rảng hơn, quy cho Mỹ đang làm rùm beng chuyện Trung Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa HQ-9 ở Hoàng Sa.""là không chỉ gây áp lực cho Bắc Kinh về vấn đề biển Đông mà còn kích động xung đột giữa Bắc Kinh với các nước khác”. Trung Quốc có đánh Mỹ không? Chưa biết. Tuy vậy, điều lạ là lần này, Trung Quốc xả cảng cho cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng và nhà nước Trung Quốc nhắm thẳng Mỹ mà hăm dọa kích động như vậy. Rõ ràng là Trung Quốc đã cân nhắc kỹ, đã chơi rất bản lĩnh, rất có tính toán trong cuộc chiến truyền thông. Binh chủng nào, lúc nào, nói gì, "ton" gì, nhắm vào ai... là có đủ loại để nghênh chiến, thay đổi rất linh hoạt để đạt nhưng kết quả khác nhau, chứ không hoàn toàn đồng phục và đơn điệu nhàm chán. Nhớ hồi chiến tranh, ta đánh ba thứ quân, phối hợp chính quy với du kích. Vậy sao lúc ngư dân sôi sục vì bị rượt đuổi, bắn, giết, cướp tàu khi ra khơi làm ăn trong biển của mình thì báo chí của Mặt trận, của Hội Nghề cá, của Hội Phụ nữ, Thanh niên... không thể lên án tội ác, đòi bồi thường, đòi quốc tế có thái độ với kẻ ý lớn hiếp đáp? Nhiều loại báo, đại diện nhiều đối tượng nhiều giọng, nhiều nội dung, nhiều cách thức tham gia linh hoạt vào cuộc chiến; mà bây giờ làm vậy cũng là “học” cách họ đang xài đủ thứ binh chủng vậy thôi. Rõ ràng trong một thế giới hội nhập, ta cần tính lại chiến lược, sách lược cho cuộc chiến truyền thông. Sách nghiên cứu về chiến lược của kẻ thù phương Bắc xâm lược Việt Nam. Phim về cuộc tiến quân anh hùng của Quang Trung và biềt bao anh hùng khác. Báo chí của nhiều tầng lớp nhân dân vốn trực tiếp hứng chịu nhiều đau thương tang tóc từ kẽ thù, lẽ nào chỉ có sự câm lặng đồng phục? V. K. H. (FB Vũ Kim Hạnh)
  13. Ảnh: National Interest Hoa Kỳ không còn có thể dựa vào các căn cứ không quân của mình tại Thái Bình Dương để tránh khỏi các cuộc tấn công tên lửa trong một cuộc chiến tranh với TC. Trái lại, một bài báo đăng vào năm ngoái 2015 của cơ quan RAND đã lưu ý rằng trong trường hợp xấu nhất, “nếu phòng thủ thiếu kín đáo, các cuộc tấn công lớn hơn, chính xác và kéo dài có thể sẽ đưa đến những tàn phá, thiệt hại lớn về máy bay và đóng cửa các phi trường trong một thời gian dài”. Căn cứ không quân Hoa Kỳ Kadena ở Okinawa tại Nhật, tương đối gần đại lục, sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất. Vào tháng 9 năm 2015, TC cũng đã công khai tiết lộ loại tên lửa đạn đạo mới DF-26, từ đại lục có thể tấn công căn cứ không quân Hoa Kỳ Andersen ở Guam, cách xa 3.000 dặm. Andersen và Kadena là hai căn cứ lớn nhất và quan trọng nhất của quân đội Hoa Kỳ ở nước ngoài. Tinian, hòn đảo nhỏ gần đảo Guam đang từ từ trở thành một trong những căn cứ dự bị của Không quân Mỹ. Ngày 10 tháng 2 vừa qua, Tinian đã được chọn như một sân bay chuyển hướng “trong trường hợp căn cứ không quân Andersen ở Guam, hoặc các căn cứ khác ở vùng tây Thái Bình Dương bị hạn chế hoặc phong tỏa.” Trong ngân sách dành cho năm 2017, Ngũ Giác Ðài đã yêu cầu 9 triệu đô la để mua 17,5 mẫu đất “trong việc hỗ trợ các hoạt động chuyển hướng và các đề nghị tập luyện quân sự”, báo Saipan Tribune đưa tin. Trong thời bình, Không quân Mỹ ước lượng sân bay Tinian sau khi được mở rộng sẽ chứa “lên đến 12 máy bay tiếp nhiên liệu và một đội ngũ nhân viên hỗ trợ cho các hoạt động chuyển hướng”. Tinian hiện giờ là một nơi buồn tẻ. Trong Thế chiến II, Sư đoàn 2 và 4 Marine của Mỹ đã chiếm hòn đảo, và sau này các phi cơ B-29 Superfortress Enola Gay và Bockscar đã cất cánh từ sân bay North Field tại Tinian và thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasakị Từng là một kho vũ khí trong thời chiến, hiện nay hầu hết các đường băng tại North Field bị bỏ hoang, không được sử dụng. West Field, một căn cứ không quân khác trên đảo lúc trước, hiện chỉ là một sân bay quốc tế nhỏ, ít được biết đến. Lúc đầu Hoa Kỳ muốn dùng Saipan làm phi trường quân đội. Cách Tinian không xa, Saipan có dân số 15 lần hơn Tinian, một phi trường lớn hơn và một bến cảng. Nhưng đề xuất này đã gặp phải sự phản đối của các nhà hoạt động địa phương do các hiệu ứng về “san hô, nước sạch, giao thông vận tải địa phương và các yếu tố kinh tế xã hội đối với cộng đồng xung quanh,” báo Stars and Stripes đã đề cập. Phe chống đối lập thậm chí bao gồm cả giới ủng hộ việc kinh doanh trong đó có cả Phòng Thương mại của Saipan. Họ lo ngại rằng phi trường rỉ sét Tinian sẽ bị bỏ rơi trong lần chi tiêu lớn của Ngũ Gia’c Ðài kỳ này. Phi trường Saipan hiện cũng đang quá tải, và dân địa phương không hài lòng về triển vọng của hàng trăm phi công bay đến cho các khóa diễn tập quân sự kéo dài tới tám tuần mỗi năm. Có thể nói đây là một sự lập lại quá khứ. Lúc trước Hoa Kỳ đã phân tán các căn cứ không quân ở những mức độ khác nhau và ở nhiều nơi trên thế giới trong thời chiến tranh lạnh. Nhưng từ khi mối đe dọa của một cuộc tấn công tên lửa từ phía Liên Xô không còn nữa và lúc ngân sách quốc phòng sau Persian Gulf War bị cắt giảm nhiều trong thập niên ‘90, Hoa Kỳ đã chuyển sang xu hướng dùng những căn cứ rất lớn (mega-base) hoạt động theo quy mô kinh tế. Tuy nhiên trong thời chiến mô thức phân tán các căn cứ quân sự có xác suất tồn tại nhiều hơn, Alan Vick của RAND đã nghiên cứu và kết luận trong năm 2015: “Phân chia những phi cơ trên nhiều căn cứ khác nhau tạo ra khả năng phòng hờ, dư bị trong lãnh vực điều hành trên mặt đất và các cơ sở. Điều này giúp tăng cường sự an toàn cơ bản của các chuyến bay bằng cách cung cấp nhiều chỗ đáp hơn cho những trường hợp cần chuyển hướng khẩn cấp hoặc lúc thời tiết xấu. Nó còn làm tăng số lượng các sân bay mà địch phải theo dõi và có thể gây khó khăn hơn cho kẻ thù lúc nhắm mục tiêu (một phần vì số lượng di chuyển giữa các căn cứ của các lực lượng bạn gia tăng).” “Ít nhất, so với mô thức tập trung, phân tán (vì làm tăng tỷ lệ đường băng và máy bay) buộc phía địch phải sử dụng nhiều năng lực đáng kể hơn để tấn công những đường băng. Mô thức phân tán cũng làm tăng chi phí xây dựng và điều hành các phi cơ trên nhiều căn cứ chính. Để giảm thiểu những chi phí này, mô thức phân tán có xu hướng dùng những căn cứ nhỏ, khiêm tốn hơn, đôi khi, có thể chỉ là những đường băng.” Robert Beckhusen Dịch giả: Phạm Ðức Duy (Ba Sàm)
  14. Nam Nguyên, phóng viên RFA 2016-02-28 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim (bên phải) họp với Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam - Vũ Đức Đam trước khi tham dự một buổi lễ chính thức công bố báo cáo Việt Nam 2035 tại Hà Nội vào ngày 23 tháng hai năm 2016. AFP PHOTO Một trong các khuyến nghị quan trọng của Báo cáo Việt Nam 2035 do Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam hợp tác soạn thảo công bố hôm 23/2/2016 là: “nâng cao hơn nữa trách nhiệm giải trình thông qua việc xây dựng một cơ chế hữu hiệu về kiểm soát và cân bằng giữa ba nhánh quyền lực, tạo dựng khung khổ pháp lý thúc đẩy quyền công dân…” Ba nhánh quyền lực được hiểu là Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp nhưng ở Việt Nam là cơ chế độc đảng do vậy việc giám sát độc lập lẫn nhau là không hiện thực. Tuy vậy theo các chuyên gia, nếu thể chế chính trị của Việt Nam cởi mở hơn, nâng cao vai trò của Quốc hội nhiều hơn thì cũng mang ý nghĩa quan trọng. Trong bối cảnh đó sự cân bằng từ nhánh lập pháp có thêm hiệu quả nếu thành phần Đại biểu Quốc hội có thêm những tiếng nói độc lập, những người không phải đảng viên Cộng sản và những người tự ứng cử không do Đảng và Nhà nước cơ cấu. Ngay sau khi Báo cáo Việt Nam 2035 được công bố, đáp câu hỏi của chúng tôi là Nhà nước có thể có cơ hội để thể hiện ý muốn cải cách qua vấn đề công dân tự ra ứng cử, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển của Liên Hiệp Quốc nhận định: “Tôi nghĩ đó là một thử nghiệm, một phép thử rất hay rằng sắp tới đây việc các ứng cử viên độc lập đó sẽ được đối xử như thế nào và sự tham gia một cách bình đẳng đó sẽ được thực hiện ra sao. Tôi suy nghĩ đấy là một trong những phép thử mà sắp tới đây chúng ta sẽ chứng kiến, để xem những quyền trong Hiến pháp được thực hiện như thế nào và sẽ có những thay đổi thực tế ra sao.” Trong các cuộc bầu cử Quốc hội đã qua, số ứng cử viên không phải đảng viên Đảng Cộng sản và số người tự ứng cử trúng cử vào Quốc hội là rất hiếm. Thí dụ cuộc bầu cử Quốc hội khóa 13 nhiệm kỳ 2011-2016, số người tự ứng cử là 83 người nhưng qua các vòng hiệp thương sàng lọc chỉ còn 15 người được đưa vào danh sách ứng cử viên chính thức. Sau đó chỉ có 4 người trúng cử, như vậy trong số 500 Đại biểu Quốc hội khóa 13 tỷ lệ đại biểu tự ứng cử rất nhỏ 0,8%. Số đại biểu ngoài Đảng cộng chung là 42 người, nếu trừ vài người tự ứng cử thì toàn bộ là Đảng cơ cấu với thành phần định sẵn. TS Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội dân sự nổi tiếng về những phản biện độc lập và cổ vũ dân quyền đã trở thành người đầu tiên công bố ý định tự ứng cử Quốc hội Khóa 14. Xuất hiện trong chương trình video ‘Câu chuyện Trong tuần’ của Đài Á Châu Tự Do, TS Nguyễn Quang A phát biểu: “Đó là việc để thể hiện việc thực thi quyền của công dân, bởi vì luật của Việt Nam qui định công dân có rất nhiều quyền, Hiến pháp Việt Nam qui định là người dân có quyền tham gia quản lý đất nước. Luật bầu cử của Quốc hội Việt Nam qui định công dân đủ 21 tuổi trở lên có thể ra ứng cử Đại biểu Quốc hội và tôi muốn thúc đẩy một phong trào học tập của người dân nhất là giới trẻ để họ hiểu rằng quyền của họ là thế nào…” Tiến sĩ Nguyễn Quang A thêm rằng, không phải ông không biết về những ứng cử viên độc lập bị trù dập loại bỏ không cho ứng cử trong các kỳ bầu cử trước. Nhưng ông tin rằng thời thế đã đổi khác, nhận thức của người dân và đặc biệt giới trẻ đã được nâng cao. Cập nhật thông tin trên mạng xã hội đã có hơn 20 người công bố ý định tự ra ứng cử, con số này có thể tăng lên đáng kể vì phải đến 17 giờ ngày 13/3/2016 mới hết hạn nạp đơn ứng cử. TS Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội dân sự nổi tiếng về những phản biện độc lập và cổ vũ dân quyền đã trở thành người đầu tiên công bố ý định tự ứng cử Quốc hội Khóa 14. Được biết Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết dự kiến số đại biểu Quốc hội thuộc cơ cấu trung ương là 198, số đại biểu thuộc cơ cấu địa phương là 302, tổng số đại biểu Quốc hội là 500 người. Thành phần ngoài Đảng của Quốc hội khóa 14 theo dự kiến là 35 người. Theo Tuổi Trẻ Online, tại Hội nghị Hiệp thương lần thứ nhất bầu cử Quốc hội Khóa 14 của Ủy ban mặt trận Tổ Quốc Trung ương tổ chức tại Hà Nội ngày 16/2/2016, ông Lù Văn Que cho rằng dự kiến đại biểu Quốc hội khóa tới chỉ có 35 người ngoài Đảng là quá ít. Theo lời ông, Quốc hội đâu phải hội nghị đảng viên mở rộng, trong khi có nhiều người ưu tú không phải đảng viên. Ông Lù Văn Que đề nghị tăng lên 100 người và hoàn toàn có thể chọn người đủ tiêu chuẩn. Cơ cấu trong đảng-ngoài đảng phải hợp lý vì Đảng chỉ có 4,5 triệu đảng viên thôi. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không đề cập gì tới vấn đề tự ứng cử. Tại Hội nghị Hiệp thương lần thứ nhất về bầu cử Quốc hội khóa 14, ông Trần Hoàng Thám nêu ý kiến nên khuyến khích những người tự ứng cử, và điều này phải được thể hiện trong cơ cấu theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chưa thấy cơ cấu cho người tự ứng cử. Ông Thám nhấn mạnh, nếu định ra cơ cấu người tự ứng cử thì sẽ tạo không khí dân chủ, phấn khởi trong nhân dân. Về nguyên tắc các kiến nghị từ Hội nghị Hiệp thương lần thứ nhất sẽ được Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc báo cáo lên Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Bầu cử Quốc gia xem xét điều chỉnh. Theo Tuổi Trẻ Online, dựa vào cơ cấu điều chỉnh lần cuối, Hội nghị Hiệp thương lần thứ hai sẽ quyết định nhân sự cụ thể. Những ý kiến từ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Trung ương được xem là khá mới mẻ liên quan tới vấn đề cơ cấu thành phần ứng cử viên tự do và người ngoài đảng, đặc biệt với nhận thức công khai Quốc hội đâu phải Hội nghị Đảng viên mở rộng. Tiến trình tổ chức bầu cử Quốc hội từ nay tới ngày 22/5/2016 không xa, thời gian sắp tới sẽ có lời giải đáp cho điều mà TS Lê Đăng Doanh gọi là phép thử để biết là những quyền trong Hiến pháp được thực hiện như thế nào và có thay đổi gì.
  15. Bài trước chúng ta nói rằng, trong tình hình hiện nay cải cách là vấn đề sống còn của Việt Nam, vấn đề tồn tại hay không tồn tại, độc lập hay mất nước, cải cách đang là yêu cầu và là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, những ai quan tâm đến tương lai của Việt Nam đều thấy rõ điều này. Tuy nhiên, câu hỏi là : tầng lớp lãnh đạo của Việt Nam có nghĩ như vậy hay không, có nhìn thấy như vậy hay không, có hiểu được ý nghĩa sống còn của yêu cầu cải cách hay không ? Chắc không ít người sẽ phản ứng ngay bằng cách nói rằng : những dân thường như chúng ta còn nhìn ra được điều này thì lãnh đạo phải thấy rõ hơn chúng ta chứ. Phản ứng này thì đúng thôi, nhưng thực tế chưa hẳn là như vậy. Điều đáng buồn là : chưa chắc tầng lớp lãnh đạo đã nhìn thấy rằng thực tiễn đang đòi hỏi phải cải cách một cách triệt để và cấp bách. Điều đáng buồn này từng là tiền lệ nhiều lần trong lịch sử của chúng ta. Hãy nhìn ngược lại quá khứ của cả dân tộc để thấy rằng, đã nhiều lần những người cầm quyền Việt Nam để mất nước, do không tự lực tự cường để trở nên hùng mạnh, nghĩa là không chịu phát triển sức mạnh kinh tế và sức mạnh quân sự, do mất cảnh giác, ngủ quên trong say sưa và trong lạc thú cá nhân, do ỷ vào việc có sức mạnh thần thánh, chủ quan khinh địch… Ta thử trở lại với thời kỳ lập quốc, để thấy rằng, Đại Việt sử ký toàn thư chép : « Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Hùng Vương nói: Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất». Thục An Dương Vương thôn tính Văn Lang, kết thúc triều đại của 18 đời Hùng Vương, phục dựng Âu Lạc, đánh thắng quân Tần, cho xây thành Cổ Loa nổi tiếng, nhưng rồi mắc đúng bệnh của Hùng Vương thứ 18, người đã bị ông ta đánh bại, mà để mất nước. Đó là bệnh say sưa ngủ quên trong chiến thắng, cậy có nỏ thần, mất cảnh giác với quân địch. Và cũng như Hùng Vương, Thục An Dương Vương chọn cách tự tử để giữ khí tiết. Âu Lạc thất thủ và các tộc người Việt bắt đầu một ngàn năm Bắc thuộc. Dĩ nhiên trong một ngàn năm đó, người Việt không chịu khuất phục và đã tiến hành các cuộc nổi dậy, hết nhóm này đến nhóm kia chấp nhận thất bại cho đến khi Ngô Quyền giành được chiến thắng quyết định và bắt đầu thời kỳ độc lập ổn định cho Việt Nam. Tuy nhiên, trong một ngàn năm tiếp theo, các triều vua Việt Nam cũng đã nhiều lần để mất nước. Tất nhiên, ở đây tôi không có ý định làm công việc tổng kết lịch sử. Nhắc lại lịch sử để dẫn tới điều này : nếu dám nhìn thẳng vào thực tế thì ta sẽ thấy rằng tầng lớp lãnh đạo của Việt Nam hiện nay đang mắc đúng các sai lầm của quá khứ, các sai lầm từng khiến cho Việt Nam mất độc lập. Chẳng khó khăn gì để đưa ra các dẫn chứng. Quý vị đã nói hàng ngày, thậm chí hàng giờ. Ở đây tôi chỉ đề cập hai điểm, hai sai lầm của lãnh đạo hiện nay, lặp lại các sai lầm trong lịch sử đã dẫn Hùng Vương và An Dương Vương đến chỗ mất nước: say sưa chiến thắng và mất cảnh giác. Các khẩu hiệu, các diễn văn của lãnh đạo, thậm chí các bài giảng của các môn thuộc ngành khoa học xã hội và nhân văn (sử, triết, văn, chính trị…) khiến cho chúng ta phải vô cùng kinh ngạc trước khả năng tự ca ngợi mình, tự say sưa trong chiến thắng của đảng cầm quyền hiện nay tại Việt Nam. Chiến tranh đã kết thúc hơn 40 năm, và trong bốn mươi năm đó, đói nghèo và các tệ nạn xã hội chồng chất trong sự thất bại của quá trình giải quyết đói nghèo, song song là quá trình mất dần từng phần lãnh thổ và lãnh hải, cùng với sự băng hoại toàn diện của chế độ, tất cả những điều đó càng khiến cho bài ca chiến thắng cất lên mỗi lần một vang dội hơn, khiến cho màu đỏ chiến thắng càng lúc càng chói rực hơn trên phông màn của các phòng họp trong mỗi kỳ đại hội đảng. Cùng với bài ca thắng lợi là điệp khúc tự ca ngợi công lao của mình. Lãnh đạo đảng cộng sản luôn tự thấy đảng « đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác », đảng luôn tự thấy « Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao», « lịch sử đảng là cả một pho lịch sử vàng »… có thể liệt kê vô số những câu như vậy, nhiều như sao trên trời. Những lời tự ca ngợi này chưa bao giờ chấm dứt, bất chấp các thất bại và các vấn nạn trong thực tế. Những khẩu hiệu như trong tấm ảnh dưới đây (do tôi chụp tại Sài Gòn) chăng đầy các đường phố khắp các tỉnh thành ở Việt Nam, mỗi dịp đảng tiệc tùng tự chúc mừng ngày sinh nhật của mình. Thái độ này của đảng cầm quyền hiện nay có khác gì thái độ của Hùng Vương 18 được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư : « Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị » ? Hãy xem lại những hình ảnh về cuộc đối đầu giữa tàu của Trung Quốc và tàu của Việt Nam trên biển Đông để thấy thực lực của quân đội Việt Nam hiện đang thê thảm như thế nào. Sai lầm thứ hai là mất cảnh giác. Hùng Vương 18 mất cảnh giác do tin rằng mình có « sức thần », tiếc là Đại Việt sử ký toàn thư không nói rõ cái sức mạnh thần thánh mà Hùng Vương dựa vào là gì. An Dương Vương mất cảnh giác vì quá kiêu ngạo về sức mạnh của nỏ thần, và ngây thơ đặt lòng tin tuyệt đối vào kẻ thù của mình, đến mức gả con gái, đưa giặc vào trong chính gia đình mình, đồng thời loại bỏ tướng tài của triều đình, Cao Lỗ, vì vị tướng này dám khuyên can vua không nên mắc mưu giặc. Lãnh đạo Việt Nam hiện nay mất cảnh giác đến mức ký kết các hợp đồng đặt hầu hết những điểm xung yếu chiến lược của đất nước vào tay Trung Quốc. Ở đây quý vị độc giả có thể phản đối tôi bằng cách lập luận rằng không phải họ mất cảnh giác, mà là họ cố tình, họ thừa biết là nguy hiểm (nếu dân thường như chúng ta còn biết là nguy hiểm thì họ phải biết rõ hơn chúng ta) nhưng vẫn cố tình ký kết cho thuê, vì họ tham lợi cá nhân mà đặt an ninh quốc gia vào tình trạng nguy khốn. Nếu quý vị phản đối như vậy thì tôi cũng đành chấp nhận, không bác bỏ được. Chúng ta còn chưa biết được việc cho thuê dài hạn các vị trí địa lý quan yếu về chiến lược sẽ mang lại những hậu quả nào cho Việt Nam. Lãnh đạo hiện nay mất cảnh giác đến mức bất chấp thực tế là Trung Quốc bành trướng, leo thang kiểm soát biển Đông, xâm phạm trực tiếp lãnh hải của Việt Nam, vẫn coi Trung Quốc là bạn tốt, và chấp nhận thiết lập những ràng buộc mà người dân không thể hiểu được lý do, ví dụ như việc lập đường dây nóng giữa quân đội hai nước. Nếu An Dương Vương tin vào sức mạnh siêu nhiên của nỏ thần mà mất cảnh giác, thì đảng cầm quyền hiện nay tin vào cái gì để mất cảnh giác và để tin rằng mình có thể lãnh đạo thành công mọi cuộc cách mạng ? Cái « nỏ thần » của đảng cộng sản Việt Nam chính là chủ nghĩa Marx-Lê nin và chủ nghĩa xã hội. Đảng cầm quyền đã và đang thần thánh hóa chủ nghĩa xã hội như là một sức mạnh siêu nhiên. Dù những người lãnh đạo có tin hay không thì họ cũng đang bắt cả dân tộc phải tin một cách vô điều kiện vào con đường chủ nghĩa xã hội, con đường mà chính họ cũng không biết sẽ dẫn tới đâu, không biết khi nào mới đến đích. Nhưng điều mà nhiều người dân đang thấy và đã nói ra từ lâu, là nó có thể dẫn Việt Nam tới chỗ trở thành một tỉnh của Trung Quốc. Tóm lại, ở thời điểm này, giới cầm quyền ở Việt Nam đang bộc lộ đầy đủ những sai lầm của quá khứ, những sai lầm từng dẫn tới việc mất nước nhiều lần trong lịch sử. (Còn tiếp) Paris, 28/2/2016 Nguyễn Thị Từ Huy (RFA Blog)
  16. VIỆT NAM - Những tuyên bố và hành động của Trung Quốc tại Biển Đông không những không làm cho cộng đồng quốc tế ngán ngại trước “lập trường kiên định” của Bắc Kinh, thậm chí, nó còn phản tác dụng. Chiến hạm Trung Quốc thực tập tác xạ ở Biển Đông hồi cuối năm ngoái. Những hình ảnh này không làm thiên hạ sợ mà chỉ thêm lo và thấy cần chống. (Hình: Nhân Dân Nhật Báo) Sau khi phớt lờ những lời kêu gọi và khuyến cáo của cộng đồng quốc tế về việc không nên thay đổi hiện trạng Biển Đông, Trung Quốc tiếp tục xây dựng các cơ sở quân sự trên chuỗi đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã bồi đắp từ bảy bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa. Hoa Kỳ phải đáp trả bằng cách điều khu trục hạm tiến vào phạm vi 12 hải lý của một trong bảy đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa để khẳng định, sẽ không để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Không những không dừng việc xây dựng các cơ sơ quân sự ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc còn điều động phi cơ dân sự thử hạ và cất cánh tại một trong những phi trường vừa xây dựng hoàn tất ở quần đảo Trường Sa. Hoa Kỳ phải tiến thêm một bước, bằng cách điều khu trục hạm tiến vào phạm vi 12 hải lý của một trong các đảo tự nhiên ở quần đảo Hòang Sa, giống như gửi đi một thông điệp: Dứt khoát không để Trung Quốc đẩy cộng đồng quốc tế vào thế phải chấp nhận chuyện đã rồi. Trung Quốc đáp lại bằng cách bài bố hỏa tiễn phòng không ở quần đảo Hoàng Sa, đưa chiến đấu cơ đến đó. Cùng thời điểm này, cộng đồng quốc tế phát giác, Trung Quốc đã thiết lập xong hệ thống radar giám sát cả trên biển lẫn trên không, tại quần đảo Trường Sa... Chuỗi sự kiện vừa kể cho thấy Trung Quốc bội tín, cam kết “không quân sự hóa Biển Đông” đã bị vứt bỏ và được thay thế bằng tuyên bố đã “tổ chức phòng vệ” từ... lâu. Ngoài Hoa Kỳ, nay, tới lượt Nhật, Úc, Ấn cũng đã bắt đầu tăng mức độ đáp trả các tuyên bố và thái độ hung hăng của Trung Quốc Cùng lúc với việc ngoại trưởng Nhật lên án Trung Quốc làm cho mức độ căng thẳng tại Biển Đông “leo thang,” bộ trưởng Quốc Phòng Nhật vừa khẳng định, Nhật đang thu thập và phân tích các thông tin liên quan đến nỗ lực quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc. Điều đó khiến người ta tin rằng, nếu trước đây, Nhật chỉ lập kế hoạch tuần tra trên biển và trên không để chứng tỏ quyết tâm bảo vệ quyền tự do lưu thông của mình thì nay, Nhật sẽ sát cánh với Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác để thực hiện các cuộc tuần tra chung. Một viên chức cao cấp chính phủ Nhật vừa tuyên bố công khai rằng, sở dĩ Trung Quốc càng ngày càng ngông cuồng, hung hăng vì đã khai thác tối đa khoảng trống về ảnh hưởng quân sự tại Biển Đông và vì phản ứng của các quốc gia trong khu vực quá chậm chạp. Với nhận thức như thế, chắc chắn Nhật sẽ tham gia lấp đầy khoảng trống và tự thay đổi cũng như thúc đẩy sự thay đổi về cách thức phản ứng sao cho vừa nhanh, vừa hiệu quả. Giống như Nhật, Úc cũng đã thể hiện thái độ mạnh mẽ hơn. Trong Bạch Thư Quốc Phòng 2016, Úc bạch hóa lý do quốc gia này gia tăng chi tiêu quốc phòng là vì e ngại trước chuỗi hành động vừa qua của Trung Quốc tại Biển Đông. Chính quyền Bắc Kinh đã lên tiếng phản đối tài liệu này Trung Quốc tiếp tục đổ thêm dầu vào lửa bằng tuyên bố, Trung Quốc “không hài lòng” về Bạch Thư Quốc Phòng của Úc và bảo Úc phải “thay đổi lập trường” cũng như “phải có quan điểm tích cực về sự phát triển của Trung Quốc.” Ấn vốn đã quyết định sẽ tổ chức tuần tra tại Biển Đông với mục tiêu giống như nhiều quốc gia khác là chứng tỏ quyết tâm bảo vệ quyền tự do lưu thông của mình và đang cân nhắc có nên phối hợp tuần tra chung hay không. Nay, Trung Quốc đã cho Hoa Kỳ nhiều bằng chứng để thuyết phục Ấn hợp tác tuần tra. Thượng Nghị Sĩ John McCain, chủ tịch Ủy ban Quân vụ của Thượng viện Hoa Kỳ vừa mới đến Ấn để hội đàm với Thủ tướng Ấn. Ông bảo rằng, tuy dân chúng Ấn chưa sẵn sàng nhưng nay, chính phủ Ấn đã có đủ cơ sở để “chuẩn bị dư luận” trong việc hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ về quốc phòng. Không phải ngẫu nhiên mà ông Ash Carter, báo cáo với hạ viện Hoa Kỳ rằng, Trung Quốc đang tự cô lập mình và khiến cho các lân bang cùng tính đến việc phải chống lại Trung Quốc. (G.Đ) (Người Việt)
  17. Mùa lễ hội Giẫm đạp và Cướp? Nhiều nam nhi VN đang làm gì? „Kinh hoàng giẫm đạp, cướp lộc sau giờ khai ấn đền Trần“(22/2/2016, …), „Hỗn loạn cướp lộc chùa Phúc Khánh sau lễ cầu an“(21/2/2016...), „Hỗn loạn, ngất xỉu ờ Hội Phết Hiền Quan“ (Vietnamnest- 20/2/2016)...“Kinh hoàng! Đánh đấm nhau gục hàng loạt ở lễ hội Phết“(tuoitre, 20/2/2016)... Nhà văn Võ Thị Hảo Theo thông tin trên báo chí, có tới hàng ngàn thanh niên và trung niên trai tráng cởi trần, „liều mình như chẳng có“, lao xuống vũng bùn trong giá lạnh, mồm văng tục chửi rủa hò hét, tay vung nắm đấm, giẫm đạp lên nhau bất kể người khác có thể bị trọng thương hoặc chết vì hành động bạo lực của mình tại Hội Phết Hiền Quan tỉnh Phú Thọ. Không thể thống kê hết số người bị thương, đổ máu hoặc ngất xỉu ngay trong một mùa hội và qua vài năm gần đây. Thật kinh hoàng là cả biển người giẫm đạp nhau chỉ để tranh cướp một quả „phết“, một vật vô tri thường làm từ gộc tre sơn đỏ. Với kiểu tổ chức thế này, không ngất xỉu và đổ máu mới là lạ. Hội cướp phết xưa nay vốn chỉ là hội làng vốn thanh tao đạm bạc nhưng mấy năm gần đây đã bị biến tướng. Những hủ tục mê tín dị đoan được chính quyền đứng ra tổ chức cùng đám buôn thần bán thánh nhằm khuyếch đại lễ hội để thu lợi. Người ta quên đi mục đích tốt đẹp ban đầu là tưởng nhớ Thiều Hoa công chúa, một nữ tướng dưới thời Hai Bà Trưng. Hội này chỉ còn ý nghĩa khuyến khích người ta tranh cướp cầu lợi danh tiền bạc, kích động tính hoang dã mông muội của đám đông. Mặc dù bị kìm giữ bởi „định hướng tuyên truyền“ của Đảng CS, Chính phủ và Ban Tuyên giáo Trung ương, nhiều người VN và phóng viên báo chí không thể kìm giữ lời cảm thán đầy chua xót trước thực trạng cạn đáy về văn hóa trong những lễ hội VN hiện nay. Làm sao có thể không tủi hổ và xót thương cho những nam nhi trai tráng Việt đã đang từng bước phá hủy một kiếp làm người. Chí làm trai, sức dài vai rộng lẽ ra phải dành cho những việc như kinh bang tế thế, một vai gánh vác gia đình và nợ non sông, nếu bắt buộc phải dùng đến sức mạnh cơ bắp, thì chí nam nhi chỉ nên dùng để đánh cướp, đánh tham quan ô lại và giặc ngoại xâm bảo vệ đồng bào mình. Làm nam nhi, nếu có cất lời giữa đám đông, chỉ đáng để cất những lời ngay thẳng chính trực, khiến cho lũ bất lương phải run sợ chứ không phải là hú hét văng tục chửi bậy và xì xụp khấn vái xin xỏ những ngẫu tượng ô trọc. Người VN đang được dẫn vào „hố đen“ Từ khoảng chục năm trở lại đây, tận dụng tâm lý sợ hãi, bất an của người dân, đa phần người quản lý đền chùa trong cả nước, đặc biệt là phía Bắc, kết hơp với bàn tay đạo diễn của chính quyền, đã thay đổi mục đích thờ phụng và dùng nhiều phương cách để thu hút tiền bạc của người VN. Thật dễ thao túng, khi dân VN phải sống trong một xã hội nhiều bất công, thiếu minh bạch. người ta kiếm được tiền hay vị trí làm việc phần nhiều là do quan hệ quyền lực, thân hữu, mua bán đổi chác. Từ đó, người VN không thể trông mong vào năng lực và sự trung thực của chính bản thân mình, bị tước đoạt cơ hội, mất tự tin và trở nên bấn loạn, chỉ còn biết trông mong vào vận may và „ơn trên“. Công luận đã phát hiện rất nhiều sư sãi tự phong là „đại đức“ sống xa hoa và ô trọc trên sự đóng góp chắt chiu của người dân qua cái gọi là „dâng cúng“, „đồ lễ“ và tiền „công đức“. Đương nhiên dưới sự quản lý của chính quyền, họ không thể hưởng thụ một mình. Ngay cả những đền chùa, lễ hội từ hàng trăm năm nay được tiếng là thâm nghiêm, thanh bạch theo tư tưởng nhà Phật cũng đã đưa ra chiêu bài cầu an, cầu tài cầu lộc, dâng sao giải hạn, cầu siêu và muôn mánh khóe khác để „móc túi“ người dân. Sự mê muội của dân là mảnh đất kiếm tiền của đám sư sãi, thầy cúng thầy bói, đám „ngoại cảm“ rởm, cũng là cơ hội kiếm tiền của một số nhân vật trong chính quyền đã tận dụng thần quyền để ngu dân hóa , triệt tiêu sức mạnh và sự phẫn nộ của người VN. Người ta có thể nhận thấy cái chợ khổng lồ mua quan bán tước trong thể chế thiếu vắng dân chủ ở VN được tái hiện, được trình diễn hết sức điển hình trong lễ hội đền Trần Nam Định. Những thủ pháp tâm lý tuyên truyền tinh vi và sự dối lừa của những kẻ buôn thần bán thánh đã tuyệt đối hóa sự thần phục „bề trên“. Hội này cũng đã kích động khát vọng không đáy về bổng lộc và quan tước. Theo phản ánh của báo chí, Hội đền Trần từ nhiều năm nay đã trở thành một đại thảm họa văn hóa và mê tín dị đoan. Từ chỗ chỉ là một ngôi đền trong phạm vi người họ Trần làng Tức Mặc lập nên vào thế kỷ 17 để thờ 14 vị vua triều Trần, ngày lễ hội đã ấn định xưa nay là trong khoảng là từ 15 đến 20 tháng 8 âm lịch hàng năm, khai ấn chỉ là một thủ tục nhỏ trong phạm vi lễ của một dòng họ. Nhưng từ khoảng năm 2000 đến nay, khi lãnh đạo chính quyền nhúng tay vào tổ chức, thì lễ hội đã chuyển ngày, phóng đại thành lễ khai ấn rầm rộ mang tầm cỡ quốc gia vào dịp rằm tháng giêng. Năm 2016 có Bộ trưởng công an và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc - hai ủy viên Bộ Chính Trị - đến dâng hương và „khai ấn“ cho lễ hội. Chính quyền VN đã không che giấu việc họ tham gia vào điều khiển lễ hội, phát biểu, bày đặt trò diễn mở màn „khai ấn vua ban“ trong mấy năm trở lại đây. Rất nhiều quan chức, cán bộ nhân viên nhà nước đua nhau đi lễ đền Trần, tung tiền và mối quan hệ thân hữu ra để kiếm được hoặc mua thẻ „đại biểu“, „khách mời“. Họ kiếm bằng được cái gọi là „ấn vua ban“, mong được thăng chức, hơn người, hưởng nhiều lợi lộc. Sự có mặt của những Ủy viên Bộ Chính trị lâu nay đã „quốc gia hóa“ hình thức „khai ấn“, như một sự ban phát đầu năm của „vua cộng sản“ cho những kẻ thần dân ngoan ngoãn đến cầu xin. Người ta nghĩ rằng hội khai ấn quan trọng đến cỡ ấy, bỏ tiền ra mua chức tước ảo, trước hết phải lo lót „ơn trên“, xin xỏ mua bán chức ảo rồi sẽ có chức thật. Công lao và hào khí Đông A của các vua Trần xưa trong việc bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm TQ xưa, đã bị khỏa lấp một cách tinh vi. Dấu ấn đọng lại chỉ là một „chợ tâm linh“ cầu quan bán tước, cầu tiền tài bổng lộc được quốc gia hóa và chính trị hóa. Tâm lý đó đã kích động lòng tham của đám đông đến mức hàng vạn người đổ về, chen chúc nhau, sẵn sàng giẫm đạp lên nhau để tranh giành được chạm, được nhét, vứt tiền lẻ vào kiệu, vào đồ thờ để „hối lộ“ thần thánh. Nhưng những cái gọi là „ấn“ đem bán hoặc phát cho mọi người trong lễ hội đã bị người dân phát hiện là rởm, vì đó chỉ là hàng vạn, hàng triệu mảnh vải hoặc giấy in lòe loẹt có hình ấn mà thôi. Dịch vụ mua ấn phát đạt đến nỗi có cả chuyển phát nhanh ấn cho những người ở xa. Trong khi đó người trong Ban tổ chức vẫn lớn tiếng rằng cứ „mười mảnh ấn lại có một ấn rất thiêng, vì được cắt từ vạt áo hoàng bào của vua, đem lại may mắn lớn cho người có được nó“. Ban tổ chức nhiều lễ hội đã dùng những thủ pháp thu hút tinh vi, trong đó có sử dụng vũ khí „tin đồn“ của „chiến tranh tâm lý“ mà một trong những biện pháp rất lợi hại là đọc trên loa phóng thanh tên nhiều quan chức lớn và người nổi tiếng đến đền chùa dâng lễ cầu an giải hạn, cầu lên chức thêm bổng lộc cho gia đình. Người dân thấy vậy cho rằng đó là những đền chùa rất thiêng thì các nhân vật này mới làm vậy và đua nhau bắt chước. Hậu quả là người dân và vừa là thủ phạm, lại vừa là nạn nhân của việc chen vai thích cánh hỗn loạn giày xéo lên nhau, vét cạn túi những đồng tiền ít ỏi thấm mồ hôi và cả máu của họ ra rải khắp nơi, nhét cả vào tay tượng gỗ, bệ xi măng, gốc đa lu nước, miệng rắn miệng ba ba xi măng để cầu an. Qua những động thái của chính quyền kết hợp thần quyền VN, người ta bị ám thị rằng dù cõi trần hay cõi âm hay cõi Niết Bàn thì cũng phải đút lót, hối lộ, thì mới mong tồn tại. Ai đã cổ vũ não trạng Cướp và Giẫm đạp? Lễ khai ấn đền Trần, với bàn tay đạo diễn của nhiều vị thuộc hàng cao nhất trong nhà cầm quyền VN, là một trò diễn mô phỏng lại mô hình thể chế xã hội độc quyền „xin cho“ thời bao cấp. Đảng cộng sản từ chỗ vô thần, phủ nhận sự tồn tại của đời sống tâm linh, phá huy nhà thờ, đình chùa miếu mạo, nhưng trong khoảng mươi năm trở lại đây, đã tận dụng lực lượng hành nghề mê tín dị đoan để dễ bề nô dịch hóa người dân. Theo Vnexpress.net, 24/2/2016, bài „Ấn đền Trần không có giá trị phù trợ đường quan lộc“, tại đề án „Khôi phục lễ hội đền Trần“ của các chuyên gia lịch sử cùng các nhà văn hóa dân gian đã xác định, thì ấn dùng trong lễ khai ấn đền Trần hiện nay không liên quan gì đến triều chính, chỉ là chiếc ấn bình thường của phủ đền xưa, làm bằng gỗ...người ta gán ghép cho nó các ý nghĩa mới để thu hút người tham dự...“. Sự thật rõ ràng là thế, vậy mà người trong Ban tổ chức lễ hội còn dám khẳng định: „Còn có một loại ấn được đóng trên tấm lụa đỏ. Loại này chỉ có rất ít, và chỉ dành cho các quan chức cấp Tỉnh, Trung ương về dự. Cứ 10 khắc trên lụa đỏ chỉ có một tấm duy nhất là có giá trị vì được cắt ra từ tấm áo hoàng bào của các đời vua. Và nếu ai may mắn được tấm lụa đó thì coi như đã đắc lộc, đắc thọ“. Qua nhiều lễ hội gần đây, đặc biệt là những lễ hội đã được chính quyền tham gia quản lý và tổ chức, người ta có thể thấy sức mạnh cơ bắp và tinh thần của người VN đang được truyền dẫn tinh vi vào những „hố đen“ mê tín dị đoan, thần quyền thô thiển vật dục kết hợp độc quyền cộng sản, triệt tiêu sức mạnh của lòng tự tin, tính độc lập, sáng tạo và nhân tính. Nếu như trong truyền thống, các đền chùa miếu mạo VN chỉ là những địa chỉ khiêm tốn, thanh tịnh để vọng tưởng một danh nhân văn hóa hoặc một anh hùng dân tộc chống ngoại xâm phương Bắc, thì ngày nay, dưới sự tham gia tổ chức và điều hành của chính quyền, những lễ hội đó đã bị biến tướng, vặn xoắn theo mục đích của họ. Cả nước hiện có hơn 8.000 lễ hội. Cứ theo đà này, sự lãng phí, sự mê tín, sự trục lợi, sự ngu dân được phóng đại năm sau hơn năm trước, thì người VN còn khốn khổ đến đâu? Nhà cai trị VN ngày nay đã biết tận dụng triệt để vũ khí độc tài và thần quyền dị đoan để dễ bề phá hủy đi sự tự tin, lý trí, khả năng nhìn nhận phân tích vấn đề và tính phản kháng của người dân VN. Họ đã làm điều đó rất thành công. Một số nhà khoa học và nhà báo, cùng người đọc đã dũng cảm phân tích cho người dân thấy nguy cơ đó. Các nhà báo và trí thức VN cần vào cuộc mạnh dạn hơn nữa vì nhân tính và tương lai của người VN. Võ Thị Hảo (Blog RFA)
  18. Vấn đề quân sự hóa Biển Đông đã không còn là những lời răn đe suông. TQ từ khoảng hai năm nay đã đẩy mạnh những hoạt động ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại đảo Phú Lâm (thuộc Hoàng Sa), TQ đã đặt các giàn ra đa, các ụ phòng không cũng như đưa các loại phi cơ chiến đấu. Tại Trường Sa, TQ đã ráo riết mở rộng các đảo nhân tạo trên các bãi cạn (Chữ Thập, Gạc Ma, Vành Khăn, Châu Viên, Su Bi, Ga Ven...), gấp rút xây dựng trên các bãi Chữ Thập, Su Bi... những phi đạo (dài trên 3000 mét). Những gì TQ đã và đang làm ở đảo Phú Lâm (Hoàng Sa) chắc chắn sẽ được thực hành cho các đảo nhân tạo ở Trường Sa. Ta có thể khẳng định rằng TQ đã và đang "quân sự hóa Biển Đông", bất chấp những phản đối của các đại cường Hoa Kỳ, Nhật, Ấn Độ, Úc... hay các nước có liên hệ trong khu vực. Nhìn động thái củng cố quốc phòng của các nước "lớn" có quan hệ đến khu vực, như Mỹ, Nhật, Ấn, Úc... để đối trọng với việc "quân sự hóa Biển Đông" của TQ, ta thấy khả năng giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng một giải pháp hòa bình trở thành viễn ảnh xa xôi. Lập trường của TQ, từ khoảng 100 năm nay, đã trở thành nguyên tắc đối ngoại, là không chấp nhận việc giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế. Tình hình kinh tế đình trệ hiện thời của TQ, cũng như những rối loạn nội bộ do những khủng hoảng xã hội bắt nguồn từ việc suy thoái, đã khiến lãnh đạo Bắc Kinh cứng rắn trong lập trường, không chỉ ở Biển Đông, mà còn đối với Đài loan. Những người này cố gắng biến cuộc khủng hoảng xã hội thành một phong trào dân tộc chủ nghĩa. Tức là lãnh đạo Bắc Kinh, ngay từ thời điểm hiện tại, chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng chiến tranh chớ không bằng các nguyên tắc hòa bình theo Hiến chương LHQ. Đối với Đài Loan (và Hồng Kông), Bắc Kinh sẽ vịn vào "luật chống ly khai" và nguyên tắc "một nước Trung Hoa" để răn đe các khuynh hướng ly khai, như của tân tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn hay các phong trào sinh viên ở Hồng Kông. Đối với Biển Đông, TQ tuần tự "khẳng định chủ quyền" của họ ở HS và TS. Bước đầu TQ sẽ thực hiện những công trình ở những vùng mà không ai có thể phản đối họ được, vì lý do mập mờ về pháp lý. Đó là tường hợp quân sự hóa đảo Phú Lâm, mở rộng các đảo (như Quang Hòa) ở Hoàng Sa. Hoặc mở rộng các bãi cạn ở TS trở thành các đảo nhân tạo, sau đó xây dựng trên các đảo đó những phi trường, bến cảng, ụ phòng không, đài ra đa... cuối cùng "quân sự hóa" để chúng trở thành các căn cứ hải-không quân. Các hành vi cho tàu bè hay phi cơ tiếp cận các đảo này của hải quân Hoa Kỳ sẽ không làm cản trở các hoạt động của TQ. Hành vi của TQ là khẳng định chủ quyền, còn của Hoa Kỳ là giữ quyền "tự do hàng hải". Nếu hai bên nhượng bộ và thỏa mãn yêu sách của nhau, hai bên sẽ không xảy ra xung đột. Thời gian tới, sau khi các công trình xây dựng đảo và việc "quân sự hóa" hoàn tất, TQ sẽ mở các hoạt động ở các khu vực khác, có thể gây tranh chấp, như xây dựng và mở rộng các đảo như Tri Tôn, bãi cạn Hoàng Nham... cuối cùng "quân sự hóa" các địa điểm này. Người ta hình dung trong tương lai ngắn, TQ sẽ mở vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông, giới hạn phía nam ở khoảng vĩ tuyến 8°30' bắc. Trong bối cảnh như vậy nhiều người VN lên tiếng thúc hối nhà nước CSVN "kiện TQ ra trước một Tòa án quốc tế". Câu hỏi đặt ra là VN có thể kiện TQ về cái gì? ở Tòa án nào? Muốn kiện một đối tượng, điều cần thiết là xác định được đối tượng đã "phạm luật" ở điều gì ? Những động thái của TQ ở khu vực Hoàng Sa, như vụ đặt giàn khoan 981 trên thềm lục địa của VN vào tháng 5 năm 2014, hay việc quân sự hóa đảo Phú Lâm, cho bồi đắp, mở rộng đảo Quang Hòa... đều có thể là những "lý cớ" để nhà nước VN đơn phương đi kiện TQ trước một Tòa án quốc tế. Thực tế cho thấy nhà nước CSVN đã không làm điều gì hữu hiệu để ngăn chặn các hành vi của TQ. Nhà nước CSVN không làm các việc này vì họ có lý do của họ. Ngay cả việc hải quân Hoa Kỳ thực hiện công tác bảo vệ quyền tự do hàng hải qui định theo luật quốc tế, VN còn không dám lên tiếng công khai ủng hộ, huống chi đến việc hưởng ứng. Hành vi của hải quân VN tháp tùng cùng hải quân Hoa Kỳ tuần tiễu (như trong khu vực biển Hoàng Sa) là cơ hội để VN khẳng định chủ quyền của mình tại HS, cũng như khẳng định quyền lợi hợp pháp của VN trong vùng biển này. Bởi vì từ lâu nhà nước VNDCCH đã nhìn nhận Hoàng Sa thuộc chủ quyền của TQ. Đồng thời nhà nước này cũng nhìn nhận khu vực biển (mà hải quân Hoa Kỳ tuần hành) là thuộc về Trung Quốc. Sự "bất lực" của nhà nước CHXHCNVN hiện nay là "hệ quả" của sự "liên tục quốc gia": nhà nước CHXHCNVN là nhà nước "tiếp nối" nhà nước VNDCCH. Tức là nhà nước CSVN hôm nay phải tôn trọng và thi hành những hứa hẹn về lãnh thổ, hải phận của nhà nước tiền nhiệm VNDCCH. Nếu áp lực của người dân có hiệu quả, nhà nước CSVN vác đơn đi kiện TQ. Thì với thực tế pháp lý như vậy, kiện là để thua. CHXHCNVN không có tư cách pháp nhân để đứng ra kiện Trung Quốc. Giả sử VN làm đơn kiện TQ ở Hoàng Sa. Vấn đề là Trung Quốc chiếm Hoàng Sa trên tay của VNCH chứ không phải trên tay CHXHCNVN. Nhà nước CSVN hôm nay vẫn còn xem thực thể VNCH là "ngụy". Vụ TT Nguyễn Tấn Dũng bị hạ bệ vì lý do có con gái lấy chồng "con lính ngụy" cho thấy chính sách kỳ thị lý lịch của lãnh đạo CSVN. Gọi VNCH là "ngụy", tức là "không thật", thì làm sao có thể kế thừa di sản ở một thực thể "không thật"? Lý do khác, lúc TQ chiếm Hoàng Sa, nhà nước VNDCCH không lên tiếng phản đối, cũng không ký tên vào bản tuyên bố lên án TQ của VNCH. Theo tập quán quốc tế, ở những tình huống bắt buộc quốc gia phải lên tiếng để bày tỏ lập trường, nếu quốc gia này im lặng thì sự im lặng này có nghĩa là sự đồng thuận. Thì bây giờ nhà nước CHXHCNVN lấy lý do gì để phản đối, chưa nói tới việc đi kiện? Hay là đi kiện về việc chồng lấn vùng biển do có quan điểm khác nhau về Luật Biển? Thí dụ TQ chủ trương các đảo HS (như đảo Tri Tôn) có hiệu lực của "đảo", còn VN chủ trương các đảo này là "đá", thì phán quyết của Tòa cách nào cũng đem lại thiệt hại cho VN. Thứ nhứt là VN nhìn nhận HS thuộc chủ quyền của TQ. Thứ hai, về hiệu lực các đảo HS, phán quyết của Tòa nhiều hay ít gì thì VN cũng mất biển. Trong khi vùng biển HS (trên lý thuyết) là của VN. Còn ở Trường Sa, VN có thể kiện về cái gì ? Ở đây cũng vậy, với tình hình hiện tại, kiện là để được thua. VN cũng không thể bắt chước Phi đi kiện TQ về việc mâu thuẩn về cách diễn giải luật biển. Bởi vì, bề ngoài, hình thức kiện là đường chữ U, nhưng bề trong lại là chủ quyền các đảo. Làm điều này VN cũng nhìn nhận các đảo TQ thuộc chủ quyền của TQ. Tức là, việc kêu gọi mọi người ký tên làm áp lực buộc nhà nước VN đi kiện TQ là "phiêu lưu", là bất định. Nếu không nói là để thua. Trở ngại trong vấn đề kiện tụng là việc kế thừa di sản VNCH. Nước CHXHCNVN hiện nay không có chính danh ở HS và TS. Họ vẫn xem VNCH là ngụy, vẫn chủ trương lãnh đạo phải là "người bắc kỳ, biết lý luận"... Thay vì kêu gọi mọi người ký tên để yêu sách nhà nước kiện TQ, hợp lý là kêu gọi nhà nước CSVN thực thi chính sách hòa giải dân tộc, mục tiêu là kế thừa danh nghĩa VNCH. Xong việc này rồi thì mới có (một chút) hy vọng về kiện tụng. Như trên đã nói, viễn tượng TQ sẽ giải quyết tranh chấp bằng vũ lực. Trong bất kỳ cuộc chiến tranh hiện đại, lý do gây chiến tranh là điều cực kỳ trọng yếu. Kiện TQ đôi khi không phải để thắng, (vì TQ không chấp nhận giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài), mà kiện để VN có được "quyền tự vệ chính đáng". Trong chiến tranh hiện đại, bên nào dành được quyền "tự vệ chính đáng" thì bên đó sẽ thắng. Trương Nhân Tuấn (FB Trương Nhân Tuấn)
  19. Trọng NghĩaĐăng ngày 28-02-2016 Sửa đổi ngày 28-02-2016 15:38 Ảnh vệ tinh chụp những hoạt động của Trung Quốc quân sự hóa đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.Reuters Hội nghị ngoại trưởng đầu tiên của khối ASEAN dưới quyền chủ tịch của Lào đã kết thúc vào hôm qua 17/02/2016 tại Vientiane. Vào lúc tình hình Biển Đông bị khuấy động do các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông, Hiệp Hội Đông Nam Á một lần nữa đã lên tiếng bày tỏ thái độ quan ngại sâu sắc. Riêng Việt Nam đã kêu gọi ngưng quân sự hóa Biển Đông. Trong bản tuyên bố chung công bố sau cuộc họp, khối ASEAN xác định rằng: “Các ngoại trưởng tiếp tục quan ngại sâu sắc” trước các diễn biến “gần đây và đang diễn ra” tại Biển Đông. Bản tuyên bố xác định rõ là “việc cải tạo đất và các hoạt động làm gia tăng căng thẳng khác”, đang làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng, có thể phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực. Trong thời gian gần đây, tình hình Biển Đông đã căng thẳng hẳn lên với một loạt hành động của Trung Quốc, vừa triển khai tên lửa và máy bay tiêm kích tại Hoàng Sa vừa tăng tốc xây dựng cơ sở bị cho là nhằm mục tiêu quân sự như phi đạo và đài radar tại Trường Sa. Các hoạt động này đã bị Việt Nam tố cáo, và tại hội nghị ASEAN, Việt Nam đã kêu gọi đình chỉ việc quân sự hóa khu vực. Phát biểu với các phóng viên sau cuộc họp, ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh xác định rằng ông “cực kỳ lo ngại” trước việc Trung Quốc gia tăng hoạt động quân sự tại Biển Đông và ông kêu gọi “không quân sự hóa Biển Đông”. Theo lời ngoại trưởng Cam Bốt Hor Namhong, ASEAN sẽ yêu cầu Trung Quốc tổ chức một cuộc họp cấp ngoại trưởng để thảo luận vấn đề Biển Đông. Về phần Singapore, nước hiện chịu trách nhiệm điều phối quan hệ ASEAN-Trung Quốc, ngoại trưởng nước này Vivian Balakrishnan cho biết là nhân chuyến công du Trung Quốc sắp tới đây, ông sẽ cố giúp hai bên sớm đạt được bộ Quy Tắc Ứng Xử COC) trên Biển Đông. Phát biểu với các phóng viên, ông Balakrishnan xác định trở lại việc Singapore không phải là quốc gia có tranh chấp nhưng hết sức ủng hộ một trật tự thế giới dựa trên luật pháp « không chấp nhận một thế giới, nơi kẻ mạnh luôn cho là mình đúng ». Điều giới quan sát theo dõi là quan điểm của Lào, nước giữ chức chủ tịch luân phiên ASEAN năm nay. Phát biểu với hãng tin Reuters, một nhà ngoại giao phương Tây cho rằng « vấn đề Biển Đông là một mối đau đầu mà Lào không muốn dính vào ». Trả lời hãng Reuters vào hôm qua, ngoại trưởng Lào Thongloun Sisoulith xác định : « Chúng tôi là bạn bè thân thiết của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, và chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết các vấn đề (Biển Đông) một cách thân hữu. Chúng tôi đứng giữa, nhưng đó không hề đặt ra vấn đề. » (rfi)
  20. Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2016-02-28 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống Ngày thơ Việt Nam lần thứ 14 tại thành phố Hồ Chí Minh. Courtesy of voh.com.vn Sáng ngày 22 tháng 2 năm 2016 nhằm vào rằm tháng Giêng âm lịch cũng là lễ Nguyên Tiêu, ngày thơ Việt Nam lần thứ 14 với chủ đề "Đất nước Cánh buồm xuân" đã được khai mạc tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, thu hút hàng nghìn người tham gia. Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo ghi nhận Ngày thơ Việt Nam lần thứ 14 qua kinh nghiệm tham dự nhiều lần của ông: “Không thể hy vọng gì quá nhiều trong ngày thơ Việt Nam về nghệ thuật thơ ca, đặc biệt là thơ ca cách tân. Ngay cả làm cho công chúng đến được với thơ ca cách tân dù thích hay không thích nhưng họ biết được là có nhiều khuynh hướng hướng tới thơ ca đích thực. Đặc biệt năm nay nhiều nơi đều có những mảng thơ hướng về biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Điều đấy nó cho thấy sự công khai công bố một cách chính thức của suy nghĩ, cảm xúc của các nhà thơ đối với đề tài rất quan trọng hiện nay đó là đề tài biển đảo. Đề tài mà trước đây ta có thể gọi là nhạy cảm nhưng thực chất qua Ngày thơ Việt Nam năm nay, kể cả năm ngoái thì tôi thấy vấn đề biển đảo là một vấn đề trở thành ý thức của nhà thơ, ý thức công dân rất mạnh mẽ đối với vấn đề quan trọng của đất nước. Tôi cho rằng Ngày thơ Việt Nam dần dần trở thành lễ hội có tính trí thức trong đời sống lễ hội Việt Nam. Ngày thơ Việt Nam đầu tiên của Hội nhà văn Việt Nam được tổ chức ở Tiên Điền, Hà Tĩnh quê hương của đại thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều. Lần đó không chỉ ở Hà Tĩnh người ta về đông mà ở Nghệ An và nhiều nơi khác người ta kéo về. Tôi thấy nhiều bà nông dân đi cấy đi cày mà họ vẫn đội cả nón vào cái ngày thơ ấy. Như vậy chứng tỏ nó đã có cái gì khác với trước đây, cái sự lặng lẽ của ngày rằm tháng Giêng, cái sự lặng lẽ của tinh thần thơ ca. Từ ngày ấy cho đến giờ là 14 năm rồi. Năm nay theo quan sát của tôi thì càng ngày càng đông đảo và càng ngày càng rộng mở.” Với chủ đề "Đất nước Cánh buồm xuân" năm nay, nhà thơ Trần Đăng Khoa mang tới sân thơ Quốc Tử Giám 3 bài thơ có tên: Đỉnh núi, Tây Bắc và Lính thời bình. Nhận định về Ngày thơ Việt Nam lần thứ 14 Trần Đăng Khoa cho biết: “Ngoài phần thơ trẻ trình diễn để các em tìm tòi đưa ra những cái mới thì sân thơ thiếu nhi rất là mới. Trước đây gần như thiếu nhi bị bỏ quên thì giờ phục hồi lại sân thiếu nhi và sân thơ này quả thật rất sinh động. Các cháu mang đến sự sinh động, tươi trẻ. Hơn nữa cái mảng về biên cương biển đảo cũng là điều cần thiết, nhất là trong tình hình phức tạp của biển đảo hiện nay không hề đơn giản. Đấy là vùng Biển Đông, vùng chủ quyền của chúng ta đã bị xâm lấn. Thêm một nét mới nữa đó là sự xuất hiện của các nhà thơ quốc tế và ngày thơ đã bắt đầu quốc tế hóa. Đã xuất hiện hai nhà thơ, một nhà thơ Bỉ một nhà thơ Pháp, hai nhà thơ rất nổi tiếng đoạt giải Concours của Pháp điều đó rất hết sức mới mẻ. Thế giới cũng đánh giá rất cao ngày thơ của chúng ta. Thực ra Festival thơ thì nước nào cũng có, thí dụ như ở Pháp tôi cũng đã dự Festival thơ nhưng nó chỉ xảy ra ở một điểm thôi nhưng ở ta thì cái ngày thơ đó được tổ chức ở 63 tỉnh thành, mà chính cái này thế giới người ta đánh giá rất cao ngày thơ của chúng ta, nó là một mỹ tục mới.” Năm nay Ngày thơ Việt Nam diễn ra vào ngày 21 tháng 2 tại Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh sớm hơn Hà Nội một ngày. Tuy có vẻ ít ồn ào hơn Hà Nội nhưng nội dung của nó không đơn nhạt và khô khan như mọi năm trước. Ông Phan Hoàng, Phó chủ tịch Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Như anh biết người Việt Nam mình vốn yêu thơ, tuy thơ không thể giúp cho người ta sống được nhưng thơ tạo con người ta cảm hứng, ước mơ nhất là khi đời sống gặp khó khăn về kinh tế hoặc là về những phức tạp của đời sống. Các bạn nhà thơ trẻ đã tiếp bước được thế hệ đàn anh vì bây giờ các bạn ấy có điều kiện hơn về tri thức, về văn hóa về thông tin. Do đó các bạn có một cơ sở văn hóa tốt hơn thế hệ đàn anh đi trước, tốt hơn cả thế hệ chúng tôi nữa. Các bạn có tinh thần đột phá rất mới, các bạn tiếp thu được trí thức của văn học phương tây cả phương đông. Các bạn tạo được nét rất độc đáo và ở đó không chỉ là tình yêu nước mà nó còn mang vẻ đẹp nhân văn, thậm chí có những bạn còn chú ý đến tầm cao hơn ngoài phạm vi quốc gia. Tôi nghĩ rằng tư tưởng và lực lượng của các nhà thơ trẻ của Việt Nam hiện nay là một việc làm tiếp nối của các nhà thơ trẻ của Sài Gòn.” Ngày thơ Việt Nam diễn ra tại Bạc Liêu. Nhà văn, nhà thơ Lê Minh Quốc có bài thuyết trình về Ngày thơ Việt Nam tại buổi khai mạc bằng một bài thơ, trong đó ông nhấn mạnh tới những điều mà cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh lãng quên đó là vai trò của người đọc thơ, là nhân dân, là những người chung quanh nhà thơ, bài thơ dài có đoạn: Thơ đứng ở đâu trên đường phố? Tôi hỏi vòm xanh không vọng tiếng trả lời Mẹ gánh gồng chân đi không bén đất Miếng cơm ăn tần tảo giọt mồ hôi Náo nhiệt phèn la âm thanh thành thị Mù mịt khói xe nghẹt thở điên khùng Những đất đai những dân oan quy hoạch Nợ đền bù giải tỏa cũng nhẹ tênh Hồn của đất trong thơ như hạt bụi Sao không kêu thương máu chảy ruột mềm Thơ đứng ở đâu trong những ngày biển động Xác cá khô nằm xếp lớp buồn rầu Thơ hoan ca qua bình minh chói sáng Sao lại quên biên giới trắng hoa lau Mẹ ơi mẹ đã ngàn đời lấn biển Máu Âu cơ từng đổ ngấu biển Đông Ngựa thánh Gióng tung hoành trong sử sách Sao thơ không cuộn giữ máu Tiên Rồng? Nói với chúng tôi, nhà văn Lê Minh Quốc cho biết: “Mong mỏi của cá nhân tôi đối là hy vọng thơ đến với công chúng nhiều hơn. Công chúng phải đến với thơ nhiều hơn nữa. Vấn đề đặt ra là thẩm định thơ mình viết thì trong thời buổi này nhà thơ phải viết cái gì? Anh viết cái gì để nó chạm tới cái bức xúc, cái nội tâm thậm chí cả đời sống tâm linh của người đọc nữa. Thơ viết cái gì thì đó mới thật sự đổi mới. Trong tranh luận nhiều người cho rằng để làm được điều đó thì phải đổi mới phương pháp thơ, đổi mới về hình thức, hiện đại tân hiện đại rồi cái này cái kia theo mình thì những cái đó không ý nghĩa gì cả. Ý nghĩa thật sự là nó phải chạm tới đời sống của người yêu thơ thôi. Thơ Đường thì có gì đâu chỉ 27 chữ bốn câu. Tứ tuyệt thì có gì đâu, rồi thơ Haiku Nhật Bản cũng vậy hình thức nó như thế ổn định như thế mà tại sao nó chạm vào lòng người? Tôi quan niệm đổi mới hình thức phương pháp thì đồng ý nhưng không phải là tất cả. Điều quan trọng là chúng ta đang sống, chúng ta biết cái gì để đồng hành cùng thời đại đó là điều quan tâm. Vấn đề viết cái gì đây thì đó là điều thử thách nhất hiện nay.” Chủ đề chung của Sân thơ Thiếu nhi và thơ Trẻ tại Hà Nội có tên “Đường Xuân”, tổ chức tại sân Thái Học. Nhà thơ trẻ Ngô Gia Thiên An, 17 tuổi là một trong 10 tác giả trẻ được đọc thơ tự sáng tác trên sân khấu. Trong khi đó tại thành phố Hồ Chí Minh các nhà thơ trẻ hóa thân vào vở kịch thơ “Chúng con chỉ cười khi Tổ quốc an nhiên” được công chúng tán thưởng nhiều và cũng là nét mới và điểm nổi bật của Ngày thơ lần thứ 14 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các nhà thơ trẻ hóa thân thành những người lính, canh giữ chủ quyền biển đảo cho người xem một cái nhìn tươi rói trước sự xâm lấn chủ quyền Việt Nam đang xảy ra ngày một trầm trọng hơn. Tiểu Quyên, nhà báo, nhà thơ, cũng là trưởng tiểu ban Văn trẻ của Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho biết sự tham gia của các bạn trẻ tại thành phố vào Ngày Thơ Việt Nam: “Một số bạn không hào hứng thì Văn trẻ cũng cố hết sức trong phạm vi các thành viên, trước mắt em chưa có kỳ vọng gì nhiều chỉ mong tất cả các bạn tham gia sân thơ và tạo sân chơi cho mình thì tự nhiên nó sẽ có sức sống mạnh hơn. Còn nếu như chúng ta rời xa sân thơ thì lĩnh vực, không gian của chính mình sẽ rất khó. Em nghĩ trước nhất là tinh thần còn kinh phí hay hình thức tổ chức thì nó lại là chuyện khác. Chỉ cần có tinh thần, có sự dấn thân, xả thân thì trong sân chơi chung em nghĩ đều ổn hết. Trước mắt em cũng chưa có kỳ vọng gì cho năm sau. Em chỉ thay mặt Văn trẻ mời các bạn thơ trẻ cho dù mình chỉ nhận được 50% tinh thần ủng hộ đồng ý tham gia nhưng ngồi lại thì hời hợt lắm. Những người ít có tinh thần mà không có thời gian hay vì lý do gì khác thì em không muốn nhắc đến nhiều bởi vì có những lý do để chúng ta từ bỏ cái sân chơi của chính mình. Nhưng trước hết Quyên thấy tinh thần tham gia của các nhà thơ năm nay cũng rất là vui rồi bởi vì ai nhận lời tham gia thì đều cố gắng hết mình. Mỗi năm mình chỉ có một lần thôi, gây được cái chương trình thế nào đó mà ít nhiều nó để lại trong lòng khán giả, trong lòng bạn thơ những giá trị nhất định đối với em như vậy cũng là thành công. Em không mong mỏi phải hoành tráng, phải tưng bừng, phải rộn ràng nhưng mà nếu như mình nhận được 100% sự ủng hộ hoàn toàn thì có lẽ tốt hơn một chút, nhưng theo em như vậy là ổn rồi bởi vì mọi người đã cố gắng rồi.” Ngày thơ Thế giới được UNESCO công nhận vào năm 1999, mỗi năm nhiều nước tổ chức các sự kiện vào ngày 21 tháng Ba. Mục đích của Ngày thơ Thế giới là thúc đẩy việc đọc, viết, xuất bản và giảng dạy thơ trên khắp thế giới. Tại Mỹ, tháng thơ toàn quốc được tổ chức không thường xuyên, lần đầu tiên được Học viện Các nhà thơ Hoa Kỳ tổ chức, đưa ra chương trình “tháng thơ” nhắm vào việc nuôi dưỡng, khuyến khích và phát triển thơ trong cộng đồng qua các mục tiêu: làm nổi bật những di sản to lớn và thành tích của các nhà thơ Mỹ, khuyến khích cộng đồng đọc thơ, hỗ trợ giáo viên trong việc đưa thơ vào lớp học, tăng sự chú ý đến thơ của phương tiện truyền thông quốc gia và địa phương, khuyến khích việc tăng tần suất xuất bản và phát hành sách thơ, cũng như khuyến khích hỗ trợ cho các nhà thơ. Tại Campuchia, Ngày thơ Thế giới được tổ chức rộng rãi trong các trường tiểu học. Các em thiếu nhi được thầy cô giáo khuyến khích bày tỏ sự sáng tạo của mình qua các bài thơ ngắn làm trong lớp, vui chơi với những bài thơ và hòa nhập với Ngày thơ Thế giới qua sự giảng giải của giáo viên về ý nghĩa và mục đích mà thơ mang lại cho con người. Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 14 có nhiều nét mới và chuyển biến tích cực hơn so với 13 lần trước. Thơ được làm chiếc cầu nối giữa người sáng tác và người đọc, cùng chia sẻ những chủ đề thiết thân trong cuộc sống hơn là ca tụng những giá trị viễn mơ là thứ mà công chúng không thể nào với tới trong một không gian ầm ĩ đầy tiếng trống, tiếng loa cũng như tiếng cười nói của người xem. Công chúng đến “xem” thơ, do đó hình ảnh bề ngoài chiếm một phần rất lớn tùy theo cung cách trình diễn. Thơ vì vậy phải vừa mới, vừa tiếp cận với công chúng hữu hiệu hơn đồng thời mở ra một câu hỏi cho các nhà tổ chức: Nếu thơ được xem thì thể loại nào sẽ thích hợp nhất với công chúng trong những lần trình diễn sắp tới?
  21. RFA 2016-02-28 In trang này Chia sẻ Ý kiến của Bạn Email Nghe hoặc Tải xuống các nhà khoa học Trung Quốc giám sát việc lắp ghép phòng thí nghiệm không gian Thiên Cung 1 và các tàu vũ trụ Thần Châu 7 trong không gian tại Trung tâm Tửu Tuyền ở tỉnh tây bắc Cam Túc vào ngày 3 tháng 11 năm 2011. AFP PHOTO Trung Quốc sẽ đưa lên quỹ đạo Trái Đất phòng thí nghiệm không gian thứ hai trong quý ba năm nay. Tân Hoa Xã loan tin vừa nêu vào ngày hôm qua (28/2/2016) và cho biết đó là một phần của kế hoạch đến thời điểm năm 2022 Trung Quốc đưa vào hoạt động trạm không gian có người làm việc thường xuyên. Phòng thí nghiệm được đặt tên Thiên Cung 2 dự kiến sẽ kết nối với tàu Thiên Chúc 1 mà Trung Quốc phóng vào quỹ đạo Trái Đất trong nửa đầu năm nay. Cũng theo Tân Hoa Xã thì Bắc Kinh có kế hoạch phóng tàu vũ trụ Thần Châu 11 với hai phi hành gia trên đó vào quý tư năm nay. Tàu vũ trụ Thần Châu sẽ kết nối với phòng thí nghiệm Thiên Cung 2. Phòng thí nghiệm không gian thứ nhất của Trung Quốc, Thiên Cung 1 được phóng lên quỹ đạo Trái Đất vào năm 2011 và cho đến nay theo Tân Hoa Xã vẫn hoạt động tốt. Phát triển chương trình không gian là một ưu tiên của chính quyền Bắc Kinh hiện nay. Đích thân chủ tịch Tập Cận Bình ra chỉ thị Trung Quốc phải làm sao trở nên một cường quốc không gian.
  22. Sau khi hàng loạt ẩn số về nhân sự tại đại hội 12 của đảng cầm quyền được giải đáp, lại tiếp tục phát sinh một ẩn số khác: Kỳ họp 11 quốc hội, dự kiến khai mạc vào ngày 21/3/2016. Hình Internet Khó có thể xem đây là một kỳ họp quốc hội “bình thường”, khi mới đây tại phiên họp của Ủy ban thường vụ quốc hội đã xác định sẽ “Quốc hội dự kiến kiện toàn một số chức danh lãnh đạo Nhà nước”. Trong thuật ngữ chính trị Việt Nam, “kiện toàn” là một từ đặc biệt và đặc thù riêng có. Rất thường khi nói tới việc kiện toàn, người ta hiểu ngay đó là một sự sắp xếp lại, thay thế nhân sự. Kỳ họp 11 của Quốc hội Việt Nam càng đặc biệt hơn khi có tới 3 ngày để bàn “công tác nhân sự”, thậm chí có thể leo sang ngày thứ tư nếu 3 ngày chưa đủ để “chốt”. Tuy vẫn chưa có thông tin nào về các “chức danh lãnh đạo nhà nước” được kiện toàn là những chức danh nào và cụ thể là những ai, một số dư luận đang cho rằng “ẩn số X” sẽ tiếp tục được giải mã theo hướng “thay ngựa giữa dòng”. Như đã biết, kết quả đại hội 12 nghiêng hẳn phần thắng về phía những người bên đảng. Tổng bí thư Trọng đã không còn sụt sùi rơi lệ như hồi Hội nghị trung ương 6 cuối năm 2012, thay vào đó nở nụ cười mãn nguyện “Tôi bất ngờ…”. Tuy được một số cuộc thăm dò không chính thức và cả nhiều báo đài phương Tây đánh giá là ứng cử viên nặng ký nhất cho chức vụ tổng bí thư, rốt cuộc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đột ngột không còn là ủy viên bộ chính trị. Không những bị loại khỏi danh sách 19 nhân vật “quyền lực nhất” trong đảng cầm quyền, ông Dũng còn không là ủy viên trung ương, cho dù bản lĩnh của ông được mô tả là “chiến đấu đến phút cuối cùng”. Lần này và khác với những đại hội trước, đảng hành động mau mắn. Nếu sau những đại hội trước, công tác bố trí lại nân sự chủ chốt phải sau hàng tháng hoặc vài ba tháng, thì chỉ sau khi kết thúc đại hội 12 chưa đầy một tuần, người ta đã thấy bên đảng sốt sắng bố trí hàng loạt chức vụ quan trọng như Hoàng Trung Hải làm bí thư Hà Nội, Đinh La Thăng làm bí thư Sài Gòn, Võ Văn Thưởng làm trưởng ban tuyên giáo trung ương, Đinh Thế Huynh làm thường trực ban bí thư… Ngay cả Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc – được cơ cấu làm thủ tướng trong tương lai gần – dù chưa nhậm chức nhưng đã bố trí đến “thăm” Ngân hàng nhà nước – một trong những căn cứ điểm trọng yếu nhất của bên chính phủ. Tiếp đó, xuất hiện dư luận cho rằng bên đảng đang muốn “kiện toàn” sớm các chức danh chính phủ chứ không chờ đến cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 5/2016 và kỳ họp đầu tiên của Quốc hội mới vào tháng 7/2016. Nếu kỳ họp quốc hội 11 vào tháng 3/2016 diễn ra đúng theo “kế hoạch”, có thể hình dung một số cương vị “lãnh đạo nhà nước” được thay thế. Đầu tiên là ông Trương Tấn Sang, sau đó có thể đến một phó chủ tịch nước. Rồi đến ông Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng cũng theo dư luận, “ẩn số X” mới là kiện toàn quan yếu nhất. Tại phiên họp tháng 2/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, việc xem xét báo cáo nhiệm kỳ của thủ tướng chính phủ đã dẫn đến một kết luận hiếm thấy: hạn chế yếu kém. Trước đó vào giữa tháng 2/2016, ông Nguyễn Tấn Dũng suýt nữa không thể đi California dự Hội nghị ASEAN do Tổng thống Obama chủ trì. Chi tiết rất nghiệt ngã là dường như chỉ nhờ vào sự can thiệp của phía Mỹ, Bộ chính trị Việt Nam mới quyết định cho ông Dũng “được đi”. Lê Dung (SBTN)
  23. Chỉ là một công ty tư nhân bán hàng đa cấp, trong thời gian mấy năm, Công ty Liên Kết Việt của một kẻ vô danh tiểu tốt là Lê Xuân Giang đã lừa được tới 62.000 người (một con số kinh khủng), trên khắp cả nước, với số tiền 1.900 tỉ đồng (con số này còn kinh hơn nữa). Qua vụ lừa đảo ở tập đoàn bán hàng đa cấp Liên Kết Việt này, ta có thể thấy mấy điều: -Nhiều người không nghĩ rằng để có đồng tiền sinh sống phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, cứ tưởng kiếm tiền dễ lắm, tiền sinh tiền, nên sa bẫy là phải. Lòng tham đã khiến con người mờ mắt, liều lĩnh, đần độn, tự mình hại mình, khó trách được ai. -Có không ít người bế tắc trong cuộc sống cho nên dù khá tỉnh táo, biết nguy cơ là rất cao nhưng vẫn liều nhắm mắt đưa chân. Rất bi kịch. Những nhà cai trị lúc nào cũng phát ngôn về an sinh xã hội cần biết điều này. -Xã hội ta bây giờ, do quân đội và công an quá được cưng chiều, bất khả xâm phạm nên có những kẻ ma lanh dựa vào đó để làm bậy và dễ thành công. Chúng cũng biết khi bị đổ bể thì cũng khó xử lý bởi rút dây động rừng. Vụ Lê Xuân Giang, hoặc vụ một sĩ quan công an ở Tây Ninh thế chấp thẻ đảng để vay hàng trăm triệu đồng rồi không chịu trả, vụ một đại tá công an ở Quảng Trị bị đình chỉ công tác để "kiểm điểm" do nhận hàng tỉ đồng chạy việc, bị tố cáo... đủ nói rằng đã phát sinh loại kiêu binh, quyền lực rất lớn, dân chúng dễ bị họ mê hoặc, lừa đảo. -Bộ máy quản lý nhà nước, cơ quan chức năng (trong đó có quân đội, công an) rất vô trách nhiệm khi để sự lừa đảo của Lê Xuân Giang kéo dài, công khai, rùm beng như vậy. Chỉ riêng cái tên viết tắt BQP, nếu tinh ý là nhận ra ngay, truy 1 câu là ra ngay, nhưng không ai hỏi, tạo điều kiện cho nó tác oai tác quái. -Những vị lãnh đạo cấp cao, tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp "ngây thơ" nhận tiền, quà, phong bì... của nó để làm bình phong cho nó, nếu còn biết điều thì hãy nhả ra để trả lại cho người bị hại. Nguyễn Thông (Blog Nguyễn Thông)
  24. Câu nói: “Thà là sống nghèo nhưng công bằng và yên bình còn hơn là cuộc sống giàu mà bon chen, không an toàn” của Bí thư TU Hoàng Trung Hải đang bị một số người phản đối và giễu cợt, thậm chí bị cắt gọt thành " Nghèo bình yên hơn giàu không an toàn" để phê phán. Nếu đặt trong xã hội văn minh, giàu có, luật pháp nghiêm minh như như Mỹ và phương Tây thì giàu có đồng nghĩa với an toàn vì có tiền là có thể thuê thám tử, thuê vệ sỹ, mua nhà kiên cố, mua vũ khí phòng thân, thậm chí không giàu nhưng có cảnh sát bảo vệ tận tình khi có nguy cơ lâm nạn. Nhưng nếu nhìn từ góc độ văn hóa và đặt trong bối cảnh làm giàu bằng mọi giá, bất chấp luật pháp và đạo lý trong xã hội Việt nam hôm nay thì tôi thấy câu nói này của ông Hải là đúng, một cảnh báo cần thiết và đúng lúc về văn hóa. Có thể hiểu là ông Hải phê phán thực trạng chạy theo tiền, làm giàu kiểu chộp giật, vô trách nhiệm và bất chấp các quy định thành văn và bất thành văn của một cộng đồng, dẫn đến rước thực phẩm tẩm chất độc, thực phẩm ôi thiu độc hại (như thịt để trong nhà lạnh 40 năm, sữa trộn bột đỉa sấy khô…) từ Trung Quốc về tràn ngập Việt Nam, hay kinh doanh tràn lan văn hóa phẩm độc hại đầu độc thể chất cả giống nói. Hay thoải mái nhập phim, chiếu phim kinh dị, tình dục và bạo lực, kinh doanh trò chơi điện tử bạo lực với quy mô lớn không thể kiểm soát, dẫn đến dẫn đến xã hội mất nhân tính, tội phạm xã hội tăng cao chưa từng thấy, chém giết tràn lan, vợ đốt chồng, cha mẹ giết con, kẻ cướp giết người hang loạt. Giàu mà mất nhân tính, mà bị đầu độc cả thể chất và tinh thần thì giàu làm gì? Cho nên khẩu hiệu hô hào làm giàu bằng mọi giá cũng méo mó và phản văn hóa. Nhìn sự giàu có của xã hội hôm nay từ góc nhìn văn hóa, với chuẩn mực an toàn là cách nhìn trung thực, không ca tụng sự phát triển để kể công Đảng và nhà nước, mà nhìn thẳng vào thực trạng mất an toàn của xã hội gắn với thủ phạm là đồng tiền bẩn. Khi ta chuyển đổi từ văn minh tinh thần sang văn minh vật chất phương Tây ta bị xóa ổ cứng di sản, mất đi cảm quan hạnh phúc của cha ông nói riêng và nhân loại nói chung. Các học giả phương Tây đã nhận xét thế giới thứ Ba từng vui như hội trong nghèo khổ, những lễ hội trong nắng cháy hạn hán vẫn làm người dân Châu Phi hạnh phúc như chưa bao giờ hạnh phúc vậy, không thua về cường độ hạnh phúc của các tỷ phú, triệu phú Mỹ mà dân Việt đang hóng hớt, ước mơ. Khi những người dân của thế giới thứ Ba chuyển sang kinh tế thị trường họ ngơ ngác buồn chán khi phải bán đi con gà, con bò mà họ coi như bè bạn. Họ thà nghèo để giữ lại bè bạn chứ không bán đi lấy tiền. Đó chính là nhân tính, vật bảo đảm cho an toàn xã hội. Khác với xã hội tham tiền theo chuẩn hạnh phúc của văn minh vật chất, xem chỉ số hạnh phúc là tiền, dẫn đến giết gia súc, buôn người, giết bè bạn, giết người thân, giết người hàng loạt… để có tiền mà hạnh phúc. Thế thì GIÀU mà không AN TOÀN không bằng NGHÈO mà BÌNH YÊN là đúng, chứ sao lại nhất nhất cứ giàu là hạnh phúc? Có tiền mà con cái nghiệm ma túy, con cái hỗn láo trấn lột bố để hút sách, để cờ bạc như đang diễn ra trên dải đất Việt nam, thì có hạnh phúc không?Có tiền mua siêu xe, uống rượu xịn mà thiếu văn hóa cộng đồng phóng như điên rồi bị tai nạn có an toàn không? Đất nước được coi là phát triển như vẫn rêu rao trong các chỉ số JDP nọ kia, nhưng không có luật pháp nghiêm minh, luật giang hồ phổ biến ngay cả trong giới cầm quyền, người dân sẵn sang bị côn đồ hành hung khi phản đối các dự án xâm phạm đất đai của tổ tiên để lại cho mình, người yêu nước có thể bị bắt nếu biểu tình phản đối giặc xâm lược Trung Quốc…thì cái gọi là Việt Nam phát triển và giàu có không hề đồng nghĩa với an toàn. Xã hội Việt Nam nghèo đói trước đây không ai muốn trở lại, nhưng không thể không thừa nhận rằng đó là một xã hội an toàn tử tế hơn xã hội hôm nay gấp ngàn lần, an toàn và tử tế ngay cả khi hàng vạn tấn bom rơi trên đầu những người dân nghèo khổ. Văn minh lượng hóa, văn minh vật chất lên ngôi hống hách tưởng mình là chuẩn mực hạnh phúc. Nhưng tiền bạc của cải chỉ là một phương tiện của hạnh phúc. Nó không an tòan trong một xã hội mất nhân tính và luật pháp chưa nghiêm minh như xã hội Việt Nam, một xã hội mà lãnh đạo bị bắt cóc giam trong giá trị đồng tiền, nhân dân bị cướp hết tiền, con người mất hết tình nghĩa và đạo lý sẵn sàng chà đạp lên các giá trị nhân văn để làm giàu. Nên xã hội ấy không hề an toàn. Một xã hội an toàn phải là một xã hội được bảo hiểm về văn hóa, về nhân tính, bảo hiểm từ bên trong mỗi con người. Do đó, điều ông Hải nói là rất đúng với thực trạng con người Việt nam và xã hội Việt nam hôm nay. Một xã hội thờ phụng đồng tiền và lăm le coi đồng tiền là tất cả sức mạnh, là một xã hội có nhiều nguy cơ nhất, số phận con người bị nhiều đe dọa nhất. Đỗ Minh Tuấn (FB Đỗ Minh Tuấn)
  25. Tôi giới thiệu với các bạn fb một truyện ngắn của nhà văn – người lính, bạn tôi, về chiến tranh. Nó qua đã lâu, có cái nên nhớ, bên cạnh cái nên quên, dưới ngòi bút của tác giả Xuân Đài. Vũ Thư Hiên I. Hai vợ chồng vừa thắp mỗi người ba nén nhang, đang cúng vái trước cây tràm cổ thụ thì một đoàn dân quân, có dễ đến một tiểu đội, lăm lăm AK, bước đến. Người đi đầu, chắc là chỉ huy, lớn tiếng: - Ông bà sao lại thắp nhang ở đây? Người chồng lễ phép: - Thưa, chúng tôi vừa tìm được mộ một liệt sĩ hy sinh vào tháng 6 năm 1972. Người chỉ huy hỏi lại: - Sao ông biết chính xác như vậy? - Thưa các ông, chả là vị này là quân giải phóng trước đây tác chiến với đơn vị lính dù của tôi. Hai bên hỏi đáp một lúc, người chỉ huy dân quân mới dịu giọng mời hai người về ủy ban xã làm việc. Đứng sững trước trụ sở ủy ban xã to như một khách sạn, hai vợ chồng nhìn nó, ngỡ ngàng. Họ không ngờ giữa một vùng đất cằn, nghèo túng lại có một trụ sở chính quyền bề thế đến vậy. II. Cặp vợ chồng này người Canada gốc Việt, sống ở Toronto, Canada. Người chồng tên Hiệp, quê Nam Định, theo gia đình di cư vào Sài Gòn năm 1954, lúc mới năm tuổi. Lớn lên, tốt nghiệp trường sĩ quan Thủ Đức, mang lon chuẩn úy. Người vợ tên Trúc, người Hoa, ở Hà Nội, từng là y sỹ quân giải phóng. Đất nước thống nhất, cô Trúc từ Trường Sơn phục viên, về nhà cũ ở phố Hàng Buồm, còn có tên gọi là phố Khách. Lúc này cô mới hai lăm, sắp lấy anh Diên ở phố Hàng Bún. Đùng một cái, năm 1979, Trung Quốc đánh vào sáu tỉnh biên giới Việt Nam. Người Hoa ở Hà Nội, kéo nhau ra biển, nhằm hướng Hồng Kông. Anh Diên, bộ đội phục viên, lại là sĩ quan trù bị, không thể đi theo vợ chưa cưới. Cô nhớ, đêm ấy, một đêm trăng Hà Nội, hai người hẹn nhau ra vườn bách thảo, dưới một cây lim già. Ánh trăng xuyên qua lá cây soi rõ hai khuôn mặt trong sáng, thơ dại. Nước mắt cô đầm đìa, chảy dài trên má anh. Đêm ấy, đôi tình nhân tâm sự với nhau đến nửa đêm mới chia tay. Đó là cuộc hò hẹn cuối cùng trước khi Trúc sang Hồng Kông. Sau hơn nửa năm chờ đợi mòn mỏi ở Hồng Công, nhờ có họ hàng bảo lãnh, cả gia đình Trúc được chính quyền Canada cho nhập cảnh. III. Với tấm bằng y sĩ không được Canada thừa nhận, Trúc phải học một lớp đào tạo lại, nhưng chỉ làm y tá, được phép mở một nhà trông trẻ. Nhà trẻ tư nhân của Trúc sạch sẽ, có hai người phụ được Trúc hướng dẫn cách chăm sóc trẻ con, cách nấu ăn làm sao cho hợp khẩu vị trẻ. Hai cô vốn là người bản xứ, sáng dạ, học rất nhanh. Người ta, cả Việt lẫn Canada, ùn ùn đưa con đến, đông đến mức nhà trẻ của Trúc không thể nhận hết. Trong số những người đến đón con cháu lúc tan trường, Trúc chú ý tới một người đàn ông trung niên có gương mặt khắc khổ, ít nói. Mỗi lần người này đến đón là con bé được đón nhảy cẫng lên: A, cậu Hiệp đã đến. Thì ra người đàn ông tên Hiệp không phải là bố của cháu. Một buổi tối, trời se lạnh, theo lệ thường,Trúc đến thăm các gia đình có các cháu gửi ở nhà trẻ của cô. Ở nhà cháu Huyền, bố mẹ cháu đi vắng, người tiếp Trúc là Hiệp. Chuyện trò qua lại, Trúc được biết, đại úy Hiệp trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi cải tạo sáu năm, rồi được tha về Sài Gòn. Người thân của anh phần lớn cư ngụ ở Canada đã bảo lãnh anh qua đây. Dù tuổi đã lớn anh vẫn nộp đơn xin học đại học công nghệ thông tin. - Tôi có nghề ngỗng gì đâu, cô – Hiệp buồn rầu nói trong một lần tâm sự - Trừ cái nghề cầm súng giết người và tránh bị người giết. Những lần gần gặp gỡ sau đó, Trúc cũng cho anh biết cô là người Việt gốc Hoa, từng lội bộ vượt Trường Sơn vào Quảng Đà, công tác tại một trạm xá ở chiến trường liên khu V. Ngày qua ngày, họ bén duyên nhau. Gia đình, và dòng họ của Hiệp tổ chức tiệc cưới ở một khách sạn lớn, hơn hai trăm người Việt và người bản xứ đến dự. Sau đám cưới ở Canada, hai người đưa nhau về thăm Hà Nội. Nhân dịp này họ cũng mở tiệc mừng cuộc gặp gỡ bà con hai họ. Người dự phần nhiều là họ nhà trai, họ nhà gáiđã về Trung Quốc và sang nước ngoài gần hết. Bên nhà gái còn phải tính các bạn học của Trúc thời phổ thông, bạn đồng đội ở chiến trường. Người mà Trúc muốn có mặt trong đám cưới của mình là Diên thì năm ấy anh đang đi hợp tác lao động bên Liên Xô… Ở Hà Nội cả tuần hai người rong ruổi khắp thủ đô. Trúc sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, không phong cảnh nào, không đường phố nào mà Trúc không thành thạo, cô trở thành hướng dẫn viên cho người chồng sinh ra ở Hà Nội, nhưng kỉ niệm tuổi thơ, tuổi thanh niên là Sài Gòn và các tỉnh miền Nam, Hà Nội đối với anh là vùng đất xa lạ, xa lạ cả với những người ruột thịt là các bác, các cô, các dì và các anh chị em trong dòng họ. Sống với nhau, Hiệp ngạc nhiên thấy vợ mình là một người thuần Việt, chẳng có tí Trung Hoa nào, trừ một đặc điểm mà trong gia đình người Hoa nào cũng có: ấy là cô thông thạo tiếng quan thoại. Khi anh nói ra nhận xét ấy, cô cười, bảo: ông cố em từ Quảng Đông sang Việt Nam, chỉ mang theo một tay nải cơm muối và nghề làm lạc rang, từ đó mà làm nên cơ nghiệp đấy. Bây giờ phải bỏ lại nhà cao cửa rộng để đi nước khác ở, cám cảnh lắm. Thế hệ em chẳng nhớ mình là người Hoa, lớn lên chỉ thấy mình là người Việt, đi học, làm cán bộ, đi bộ đội, như mọi người khác. Sống ở Canada, mỗi lần nghĩ tới Hà Nội là nghĩ tới quê hương Việt Nam. Mai này về già lại nhớ Canada đấy. Việc năm nay quay lại Việt Nam tìm mộ một người lính phía bên kia là ý của Hiệp. Anh kể anh đã từng chôn một anh lính quân giải phóng, là đồng đội của Trúc đấy. Lúc đó anh là đại úy đại đội trưởng. Cả tiểu đoàn đang hành quân thì bị phía bên kia phục kích. Phải nói thẳng, tình báo phía bên kia giỏi, họ đoán trước, hoặc trước, hướng hành quân của bọn anh nên đào sẵn giao thông hào, bọn anh vừa hành quân qua là nổ súng. Bên họ nấp kỹ dưới chiến hào, gác súng lên mà bắn. Bọn anh thì đang nghênh ngang giữa đường. Ngay loạt đạn đầu, đại đội anh đã chết bảy mạng, cậu truyền tin đi sau, sát anh, đổ gục. Chắc họ nhắm bắn anh sĩ quan chỉ huy, nhưng anh bước nhanh nên đản trúng cậu ấy. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho các đại đội tấn công trả. Cuộc tấn công phải nói là dữ dội. Không biết có bao nhiêu lựu đạn ném tới tấp như mưa vào giao thông hào phía bên kia. Cũng chẳng biết đối phương chết và bị thương bao nhiêu. Họ chiến đấu cũng dũng cảm lắm – những người còn sống bất ngờ vọt lên dùng CKC bắn xối xả vào đơn vị của anh. Đây là lần đầu tiên bọn anh trực chiến ở khoảng cách gần như thế. Kết cục em có thể đoán được. Đối phương khoảng một đại đội, sau mới biết là toàn lính chủ lực từ ngoài Bắc vào. Bên anh là một tiểu đoàn, quân số gấp bốn lần họ. Dân gian có câu: hai đánh một không chột cũng què, giờ là bốn đánh một, đối phương thua là lẽ tất nhiên. Khi đối phương tháo lui, chiến trường ngổn ngang binh lính cả hai phía. Bọn anh thu dọn chiến trường, những người bị thương được đơn vị gọi trực thăng đưa về bệnh viện Đà Nẵng cấp cứu. Lúc đó bọn anh mới phát hiện một người lính phía bên kia bị thương vào hai đùi khá nặng, máu chảy xối xả, nằm trong một bụi gai. Bác sỹ quân y tiểu đoàn còn bận cấp cứu thương binh của mình. Anh và mấy cậu lính lôi anh ta ra, cố dùng ga-rô cầm máu cho anh ta nhưng đã quá muộn – anh ta bị mất máu quá nhiều. Hỏi anh ta có muốn trối trăng gì không, thì anh ấy chỉ kịp thều thào: tôi là Nguyễn Đình Thiên quê ở huyện Ý Yên Nam Định. Mấy cậu lính hỏi anh: đại úy, bây giờ mình làm sao với cái xác chết này? Anh lẳng lặng tháo ba lô xuống, lấy pông-sô cho thi thể anh ấy vào và chôn ngay dưới gốc cây tràm cạnh những bụi gai nọ. Chẳng biết loại cây gì mà nhiều gai đến thế. Không hiểu vì sao, vì gương mặt anh lính có nét giống một người bạn của anh hay vì cái gì khác, anh không chôn xong thì bỏ đi, như đồng đội anh thường làm, mà cẩn thận chôn một hòn đá lớn phía đầu anh ấy, hướng vể phía Bắc, quê anh. Anh tin sẽ có ngày mình trở lại nơi này, khi chiến tranh kết thúc và mình còn sống. Trúc chăm chú nghe câu chuyện. Hiệp khẩn khoản nhin vào mắt vợ: - Hè năm nay, vợ chồng mình về Việt Nam ra miền Trung tìm mộ anh ấy nhé? Để báo cho gia đình anh ấy đưa anh ấy về quê. Trúc băn khoăn: - Liệu anh có còn nhớ chính xác nơi chôn anh ấy không chứ? - Anh nhớ mà. Anh đã quên nhiều những điều xảy ra với anh trong chiến tranh, nhưng chuyện này anh nhớ. Anh nhớ rất rõ nó xảy ra chính xác ở chỗ nào. Trúc có chút ngần ngừ: - Hay là anh đi một mình, hè này em bận lắm đấy! - Không được đâu, em ơi - Hiệp nằn nì – Chuyện này anh để bụng đã lâu lắm rồi. Anh phải làm bây giờ, hoặc chẳng biết đến bao giờ. Gác mọi việc sang một bên, về cùng anh đi. Em từng chiến đấu ở phía bên kia, có gì người ta coi em là đồng đội của người chết trận, chứ anh, có thể sẽ bị lôi thôi, là thằng sỹ quan ngụy năm xưa mà. - Chiến tranh qua lâu rồi mà. Hiệp lắc đầu: - Cẩn thận vẫn hơn, em ạ. Không có em đi cùng là không xong đâu. Mà đây là việc hai vợ chồng mình cùng có trách nhiệm, không thể không làm. Hôm xuống sân bay Đà Nẵng, họ cầm theo một tấm bản đồ Hiệp vẽ nguệch ngoặc tọa độ mà anh còn nhớ như in. Sau mấy ngày vất vả tìm đường, hai vợ chồng cuối cùng rồi cũng tìm được mộ người chiến sỹ đã nằm im dưới đất hơn bốn mươi năm. Mùa xuân năm Giáp Ngọ (2014) hai vợ chồng nhận được một lá thư của UBHC xã Đại Lạt. Lá thư viết ngắn gọn, sau vài lời hỏi thăm sức khỏe anh chị và các cháu đã báo tin cho anh chị mừng là hài cốt anh bộ đội Nguyễn Đình Thiên đã được gia đình từ Nam Định vào đưa về chôn cất ở nghĩa trang liệt sỹ huyện Ý Yên. Gia đình anh Thiên nhờ chúng tôi chuyển lời cám ơn anh chị. Đọc xong lá thư, hứng khởi Trúc hát khe khẽ: sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không … - Bên này, bên kia đã là quá khứ, cuối cùng giờ chỉ có một bên là người Việt, phải không em? - Hiệp ôm vợ nói - Anh cảm ơn em đã đi với anh để làm được cái việc mà bao năm nay anh canh cánh bên lòng. - Em phải cảm ơn anh ấy chứ. Vi anh đã bước qua được cái ranh giới bên này bên kia ấy. Để vợ chồng mình làm được một việc phải làm, và làm xong mình thấy mình hạnh phúc.o Xuân Đài (FB Vũ Thư Hiên)

×
×
  • Create New...