Jump to content

Search the Community

Showing results for tags 'bình luận - quan điểm'.

  • Search By Tags

    Type tags separated by commas.
  • Search By Author

Content Type


Forums

  • Tin Tức Thời Sự
    • Thời Sự Việt Nam
    • Tin Quốc Tế
    • Tin Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại
    • Bình Luận Thời Sự
    • Khoa Học & Kỹ Thuật - Môi Trường
    • Kinh Tế
    • Biển Đông
    • Thể Thao
    • Thế Giới Động Vật
  • Đời Sống Xã Hội & Tâm Linh
    • Sức Khỏe
    • Tìm Hiểu Tôn Giáo
    • Tử Vi & Phong Thủy
    • Quê Hương Ký Sự
    • Tâm Linh
    • Xã Hội
  • Văn Hóa & Nghệ Thuật
    • Phụ Nử
    • Lịch Sử
    • lời hay ý đẹp
    • Văn Hóa & Nghệ Thuật
    • Online Study
    • Truyện ngắn Audio
  • Vườn Thơ
    • Thơ Sáng Tác
    • Thơ Đấu Tranh
    • Thơ Sưu Tầm
  • Âm Nhạc
    • Thông Tin Âm Nhạc
    • Nhạc Online
    • Cải Lương - Tân Cổ
    • Quán Khuya
  • Giải Trí
    • Thư Giãn
  • Phim & Nhạc
    • Phim Online
    • Thông Tin Điện Ảnh
    • Đời Nghệ Sỹ
  • Thông Báo
    • Cập nhật lượng khách truy cập

Categories

  • Videos
    • Âm Nhạc
    • Film online
    • Thễ Thao
    • Thế Giới Động Vật
    • Thảm Họa Hàng Không
    • Kinh Tế
    • Khoa Học
  • Tin Tức
    • RFA
    • Thời Sự Việt Nam
    • Thế Giới
    • Người Việt Hải Ngoại
    • RFI
    • Thời Sự Hoa Kỳ
    • Khung Trời Mới
    • ĐKN
    • NTD
    • The Saigon Post
    • Nửa Vòng Trái Đất TV
    • Culture Chanel
    • Chuyễn Động Toàn Cầu
    • VIETV NETWORK
    • Tự Lực Bookstore
    • Thế Giới Tiêu Điểm
    • LITTLE SAIGON NEWS
    • VietCatholicNews
    • English News
  • Bình Luận - Thời Sự
    • Sài Gòn TV Bên Kia Màn Khói
    • OfficialVietFaceTV
    • Đọc Báo Vẹm
    • Người Việt TV
    • VOA
    • Truyền Hình Calitoday
    • Biển Đông
    • PhoBolsaTV
    • SBTN
    • BBC Tiếng Việt
    • Saigon TV 57.5
    • Việt Thảo tonight
    • Kinh Tế Gia Nguyễn Xuân Nghĩa
    • TV Tuần-san
    • 2VNR
    • Mẹ Nấm
    • Tiếng Vọng Về Nguồn (TVVN)
    • VIETLIVE TV
    • SET TV (Saigon Entertainment Television)
    • Viet TV Australia
    • Trung Quốc Không Kiểm Duyệt
    • LSTV
    • Chiến Tranh Ukraine
    • Sỗ Tay Quân Sự
    • Nguoi Viet Channel
    • Chão Lửa Trung Đông
  • Đời Sống
    • Tử Vi & Phong Thủy
    • Lịch Sử & Văn Hóa
    • Tâm Linh
    • Tinh Hoa TV
    • Ẫm Thực
    • Sức Khỏe
    • Biết tõ cùng ai ?
    • Online Study
  • Văn Hóa Nghệ Thuật
    • Văn Học Nghệ Thuật

Find results in...

Find results that contain...


Date Created

  • Start

    End


Last Updated

  • Start

    End


Filter by number of...

Joined

  • Start

    End


Group


  1. Nhân Hội nghị TW 4, lại nói về “Chuột và Bình” Một trong những cột trụ – luận thuyết gốc của CN Mác-Lênin (CNMLN) là: Phép Biện chứng duy vật (BCDV). Tuy chỉ là một trong ba bộ phận cấu thành của CNMLN nhưng phép BCDV “là bộ phận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy nhằm hình thành thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng“. Bài này của một người không chuyên về nghiên cứu lý luận chính trị, chắc hẳn sẽ có nhiều thiếu sót nhưng xin đóng góp một tiếng nói trước hiện tình có thể gọi là bước ngoặt của Đất nước và của ĐCSVN. Trước hết nói về “chuột”. Chuột là ai? Chuột ở đâu?… Có thể khẳng định: chuột là tất cả những kẻ đang phá hoại cái đất nước này. Đó là những “con sâu, những bầy sâu liên kết nhau” phá hoại mùa màng. Đích thị chúng là cái mà báo chí cho dù ở lề nào – phải hay trái – đều gọi là các “nhóm lợi ích” theo nghĩa xấu, đang ăn tàn, phá hoại, bòn rút tài sản của Dân, của Nước. Chúng hợp nhau lại “ăn không chừa của dân một thứ gì”. Chuột đang ở đâu? Chúng đang là những kẻ Có Quyền để “ăn”, để “bòn rút”. Những con người thuộc “giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng”- chẳng hạn những công nhân khu công nghiệp Bình Dương hay Nghệ An đình công vừa rồi-, những người thuộc giai cấp nông dân mất đất hay “tầng lớp” trí thức cách mạng” nói chẳng ai nghe,.v.v. chắc không phải và không thể là “chuột”… “Những kẻ Có quyền làm chuột” hiện nay, khốn thay cho Dân tộc ta, “là một bộ phận không nhỏ”, “sờ đâu cũng thấy”- là hầu hết các quan tham từ thôn, xã, huyện,…lên tận cấp trung ương và ở khắp các Bộ, ngành. Nói ngắn gọn: đó là những đảng viên ĐCSVN có chức có quyền. Hay nói một cách thẳng thừng: chuột đang phá hoại “Sự nghiệp Cách mạng”, phá hoại Đất nước này là hầu hết những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đang nắm giữ các chức vụ khác nhau ở mọi ngành, mọi cấp trên “cái đất nước này”! Vậy thì “bình” là cái gì đây? Nó ra sao mà chứa được nhiều chột thế?… Ai cũng biết ở Việt Nam ta, Đảng Cộng Sản đang là lực lượng tối cao lãnh đạo Đất nước. Hiến pháp 2013-điều 4 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội“… Vậy có phải Đảng CSVN chính là “bình” chứa nhiều “chuột” –như định nghĩa trên? Bình là nơi chuột đang ẩn nấp, là bình phong chở che cho các bè lũ chuột. Nếu qủa vậy thì chuột nào tuy cắn nhau, mà chẳng liên kết lo giữ cho “bình” không vỡ để tiếp tục “vinh thân phì gia- “kệ cha chúng nó”?… Biện chứng là ở chỗ: chuột và bình có mối liên hệ ràng buộc với nhau Bình che chuột và chuột lo giữ bình…Phép biện chứng chỉ ra: “Không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau“. “Còn Đảng còn mình” là một khẩu hiệu minh chứng rõ nhất cho mối quan hệ bình-chuột này. Công cuộc chống tham nhũng của Đảng CSVN vì vậy là cực kỳ khó khăn hay nói trắng ra là một “nhiệm vụ bất khả thi” nếu quan hệ chuột bình trên vẫn giữ nguyên như thế. Như Tổng bí thư ĐSCVN thú nhận: chống tham nhũng vô cùng khó khăn “vì ta đánh ta”. Câu trả lời do quẫn trí khi bị cử tri dồn vào thế bí? “Ta” nào đánh với “ta” nào vậy? Khác nào thú nhận: Chuột là ta và ta cũng là chuột.? Có lẽ trên “cánh đồng” Nhân dân, có các bầy chuột đồng, chuột cống, chuột nhắt, chuột chù,…vừa “ăn”, vừa đang dàn binh bố trận đánh nhau cũng chỉ để giành ăn? Khác nào thú nhận: dù trắng hay đen chúng ta đều là “chuột” cả? Đảng CSVN đã bao lần ra nghị quyết về chống tham nhũng, nhiều chục năm trôi qua, gần đây nhất HN TW 4, khóa XI và XII, hô hào khản cổ cũng chỉ làm cho “tham nhũng càng tinh vi hơn” mà thôi. Bình chính là “môi trường” dung dưỡng chuột, làm chuột sinh sôi và phát triển. Hơn nữa, chuột do bình sinh ra. Bình, đó chính là thể chế, chế độ do ĐCSVN lãnh đạo. Nói cách khác, “bình” ở đây chính là ĐCSVN. Lối thoát duy nhất vì vậy, để diệt chuột tận gốc hay giảm thiểu số chuột đang nhung nhúc khắp nơi, là ở chỗ phải thay đổi cái “bình”- môi trường đang dung dưỡng bầy chuột. Đảng phải tự giác thay đổimột cách triệt để, hay thậm chí phải “lột xác”. Nội hàm của “phạm trù” lột xác của Đảng xứng đáng là một “siêu đề tài” của Hội đồng lý luận trung ương và huy động trí tuệ toàn Đảng- nhất là của những “đảng viên nhưng mà tốt” – và Nhân Dân đóng góp- nếu Đảng còn coi là “ của dân, do dân và vì dân”. Mục tiêu cốt lõi, cái “bản chất”, cái “kết quả” hay cái “bất biến” phải xác định ở đây là quyền lợi của Đất nước, Nhân dân và Dân tộc. Con đường đi tới không thể khác là: 1- xây dựng một xã hội Dân chủ, trong đó coi trọng các tổ chức xã hội dân sự, thể hiện Quyền con người của công dân; 2- xây dựng một Nhà nước Pháp quyền, Hiến pháp và hệ thống luật pháp là tối thượng, thực thi trên thực tế tam quyền phân lập; 3- Xây dựng và phát triển nền Kinh tế thị trường một cách đúng đắn với sự tham gia hợp lý của cả 2 yếu tố là Thị trường và Vai trò của Nhà nước. Xin mời quý độc giả xem Video: Phe Ba Dũng đánh cú nốc ao tung nhiều bí mật đời tư của Tổng Trọng: từng trốn bộ đội Lối thoát? “ĐỔI MỚI TRIỆT ĐỂ, LỘT XÁC HAY LÀ CHẾT” là khẩu hiệu hành động cấp thiết bây giờ của Đảng CSVN, nếu Đảng không muốn “tự phủ định”. Tình hình Thế giới, khu vực và Đất nước đang chuyển động, biến đổi nhanh chóng, khôn lường. Vậy mà TBT Nguyễn Phú Trọng yêu cầu toàn Đảng đề phòng và chống “chuyển biến”, “chuyển hóa” được sao? Ông, một người từ trong lò lý luận của Đảng đi ra, lại định chặt đi nốt cái cột trụ có gía trị hơn cả của CN MLN là Phép Biện chứng hay sao? Nhận thức đó vừa không đúng với thực tiễn, vừa phản bội về lý luận. Bộ chính trị, BCH TW và toàn thể Đảng CSVN – những “đảng viên nhưng mà tốt” trong các bộ phận đó – chỉ có hai sự lựa chọn: hoặc là “đứng yên”, kiên định”, “giữ vững” những cái cũ và mơ hồ được nói đi nói lại nhiều lần; hoặc TỰ GIÁC THAY ĐỔI VÌ DÂN, VÌ NƯỚC VÀ chuyển động theo NHỮNG CON ĐƯỜNG SÁNG MÀ NHÂN LOẠI VĂN MINH ĐANG SẢI BƯỚC. Đảng CSVN hãy tự giác ngộ và hãy dám dấn thân theo gương các bậc tiền bối trước đây, trước khi quá muộn. Mong lắm thay. Nguyễn Mạnh Tuấn (Ba Sàm)
  2. Đào Anh DũngGửi cho BBC từ Hà Nội Image copyrightGETTY IMAGES Image captionTiến sĩ Đinh Thế Huynh (phải), Uỷ viên Bộ Chính trị, đang là Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Ngày 22/10 vừa qua, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trao Huân chương Độc lập hạng Nhất cho cái gọi là "Hội đồng Lý luận Trung ương" của họ, nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập hội đồng này. Cùng thời gian, ông Đinh Thế Huynh, Chủ tịch hội đồng ấy có chuyến công tác dài gần nửa tháng ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hai sự kiện có vẻ ngoài sáng màu ấy không che lấp được sự thật tối màu là ĐCSVN đã và đang ở trong một cuộc khủng hoảng lý luận kéo dài từ năm 1976, tới nay chưa thấy dấu hiệu khởi sắc. Cần biết rằng họ quan niệm vai trò của lý luận như là ánh sáng soi đường, như chiếc la bàn mà nếu không có chúng thì đảng, nhà nước và xã hội sẽ loạn. Lúc mới thành lập, họ có sẵn lý luận của Lenin để dùng; lúc đánh Pháp đánh Mỹ, họ có thêm tư tưởng của Stalin, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai hỗ trợ. Trong thời kỳ chiến tranh ấy thì vốn lý luận như vậy là đủ giúp họ giành được chính quyền khắp cõi Việt Nam. Thoát khỏi media player giúp đỡ với media player Ra khỏi media player. Bấm enter để quay lại hay tab để tiếp tục. Quan hệ Việt - Mỹ: Hai bên sẽ đối thoại 'thẳng thắn' Nhưng niềm vui sau năm 1975 lại ngắn chẳng tày gang, do nền kinh tế ảm đạm trong nước, do cuộc chiến biên giới 1979 khốc liệt với người "vừa là đồng chí, vừa là anh em". Có thể nói rằng họ bị dội nước lạnh từ rất sớm; con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), cộng sản chủ nghĩa (CSCN) bỗng chốc mịt mù, hiểm trở hơn họ tưởng. Image copyrightGETTY IMAGES Image captionViệt Nam đang hội nhập kinh tế với thế giới Năm 1986 tới như một tất yếu: phải "mở cửa, đổi mới" về kinh tế, như Đặng Tiểu Bình đã làm trước đó (1978) với Trung Quốc. Sự tan rã khối XHCN ở Đông Âu (1991) đối với ĐCSVN chẳng khác nào giật phăng bàn tay người lớn dìu dắt ra khỏi đứa bé còn đang chập chững tập đi. Chới với như người sắp chết đuối bám lấy ngay cả cọng rơm, họ bấu víu vào cái gọi là "kinh tế thị trường định hướng XHCN", còn gã hàng xóm to lớn phương Bắc cũng kịp vẽ ra cái bánh mang "màu sắc Trung Hoa" mờ mờ ảo ảo hòng cầm cự càng lâu càng tốt. Có thể nói, suốt mấy chục năm qua, "thành tích" của Hội đồng Lý luận Trung ương chỉ là một cọng rơm ấy mà thôi. Vốn dĩ khái niệm "XHCN" họ đưa ra đã là mơ hồ, mà Marx và Engels từng phân biệt tới vài loại (phong kiến, tiểu tư sản, tư sản, "chân chính", không tưởng, khoa học). Định hướng theo cái mơ hồ là mất định hướng, căn cứ vào cái mơ hồ là vô căn cứ, lý luận có cũng như không. Còn thực tế thì trở thành "XHCN định hướng kinh tế thị trường", cho nên cũng chẳng lạ gì khi ông John Kerry chỉ nhìn thấy chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam. 'Tự chuyển hóa' từ đâu đến ? VN: Chọn cả Trung Quốc lẫn Mỹ là 'khôn ngoan'? Ngược lại quá khứ, ta thấy ông Hồ đánh giá khá cao vai trò của lý luận, nhưng chưa bao giờ ông ấy cho thấy năng lực của một nhà lý luận tầm cỡ vĩ mô theo kiểu Marx, Engels, Lenin. Phó mặc công tác nghiên cứu lý luận về CNXH, CNCS cho các lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc, cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" thực ra chỉ tập hợp các quan điểm rời rạc về những vấn đề riêng lẻ của Việt Nam, dành cho những nhóm đối tượng cụ thể, với văn phong rất "nôm na", nặng về dạy đạo đức, chịu ảnh hưởng nhiều của triết lý Khổng, Nho. Chính vì rời rạc, chưa được hệ thống hóa, chưa được luận giải đến nơi đến chốn, nên rất dễ trở thành "siêu hình", không "biện chứng", thành giáo điều cứng nhắc khi đưa vào thực tiễn. Về hoạt động lý luận, ông Lê Duẩn có cố gắng hơn ông Hồ, văn phong giống ba vị tiền bối kinh điển của CNCS hơn, và hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của triết lý Khổng, Nho. Vì sao ông Đinh Thế Huynh thăm Mỹ? John Kerry: 'Chỉ có chủ nghĩa tư bản' ở Việt Nam Điểm chung của ông Hồ, ông Duẩn (ở đây phải kể thêm cả ông Giáp, ông Đồng nữa) là mạnh về chính trị, quân sự song lại lúng túng, kém cỏi khi quản lý, điều hành nền kinh tế. Nguyên nhân khách quan, do chiến tranh liên miên khiến thời gian đi sâu nghiên cứu bị hạn chế, do bất đồng ngôn ngữ khiến việc tìm hiểu các trước tác của ba vị tiền bối kinh điển không được đầy đủ; nguyên nhân chủ quan, đó là sự thụ động lẫn ỷ lại trong công tác lý luận của Bắc Việt khi Liên Xô và Trung Quốc còn đang mạnh sau Thế chiến II. Hệ quả là khi Trung Quốc quay lưng, Liên Xô sụp đổ thì các lãnh đạo Việt Nam bị hẫng hụt nghiêm trọng. Họ chỉ còn cách nhào nặn Chính sách kinh tế mới hay chủ nghĩa tư bản-nhà nước của Lenin, thành một món tạm thời nhai được. Đồng thời, sau 30 năm "đổi mới" họ đã phải lùi bước ở một số điểm quan trọng trong cương lĩnh, điều lệ của mình, chẳng hạn: vai trò của kinh tế nhà nước, đảng viên làm kinh tế tư nhân, tỷ lệ nhà nước nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp,... Định nghĩa hiện nay của Đảng về XHCN không khác với cái xã hội mà các nước tư bản chủ nghĩa khác đều đang hướng tới (công bằng, dân chủ, thịnh vượng,... ), ngoài một điểm duy nhất: Đảng cộng sản ở vị trí lãnh đạo độc tôn. Thực chất Hội nghị Trung ương 4 Để tạm thời an lòng dân chúng, họ đã vay mượn những khái niệm, khẩu hiệu mà ba vị tiền bối kinh điển cho là mang tính chất "tư sản". Họ bỏ qua vấn đề căn bản: sở hữu tư liệu sản xuất (đặc biệt là đất đai). Đỉnh điểm của sự khủng hoảng lý luận hiện ra trong Cương lĩnh 2011, ở đó họ đưa vào định hướng "đoàn kết, bình đẳng các giai cấp" chứ không phải đấu "đấu tranh, xóa bỏ giai cấp" - một sự phản bội rõ ràng, nghiêm trọng so với Marx và Engels! Những yếu kém trong công tác lý luận mà Nghị quyết 37-NQ/TW ngày 09/12/2014 của Bộ Chính trị đã kể ra (nếu nhắc lại ở đây sẽ quá dài) là có thật. Tính chất "không có tiền lệ, không giống ai" của con đường quá độ từ xã hội tiểu nông lên xã hội CSCN, bỏ qua giai đoạn TBCN - mà đầu tiên là ông Lê Duẩn, sau này nhiều vị lãnh đạo khác thừa nhận - cũng là có thật. Song liệu chúng có phải lý do chính đáng để phản bội Marx và Engels, trong khi vẫn hùng hồn tuyên bố "lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư tưởng, hay không? Bài viết nêu quan điểm riêng của tác giả ở Hà Nội. (BBC)
  3. Đối ngoại và đối nội không phải chỉ là hoạt động của Quốc gia mà là của mọi tổ chức, mọi gia đình, mọi con người. Có 2 loại người với xu hướng khác nhau, hướng nội và hướng ngoại. Thông thường người hướng nội quan tâm nhiều đến đối nội, người hướng ngoại thích thú với đối ngoại hơn. Nhưng hướng về một phía nhiều quá sẽ thành cực đoan, không tốt. Vấn đề là giữ được quan hệ, giữ được cân bằng giữa hai lĩnh vực này. Hình minh họa Ngẫm nghĩ cho kỹ thấy rằng đối nội là gốc gác, cách gì cũng phải có. Vì vậy đối ngoại phải xuất phát từ đối nội và phục vụ cho đối nội. Trong hai việc, nếu bắt buộc phải ưu tiên cho một việc thì người khôn ngoan sẽ chọn đối nội, phải làm tốt đối nội mới có cơ sở vững chắc để đối ngoại. Ngược lại những người mắc “bệnh sĩ” sẽ chọn đối ngoại. Họ quá xem trọng hình thức và lời khen chê của mọi người, cố làm ra vẻ ta đây sang trọng, giỏi giang. Ca dao VN có bài nhận xét về loại người này: “Ra đường võng giá nghênh ngang/ Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mày…”. Bệnh sĩ của một con người đã tai hại, bệnh sĩ của một dân tộc, một đất nước càng tệ hại hơn. Nhưng nói bệnh sĩ của dân tộc có lẽ không đúng mà là của những người lãnh đạo, quản lý rồi lây lan ra trong xã hội. Khi đối nội chưa được tốt mà muốn khuếch trương đối ngoại để được nhiều tiếng khen thì buộc lòng phải tìm cách che giấu những thói hư tật xấu, che giấu những tệ nạn gặp phải. Như thế là phạm vào tội dối trá. Các nước đều rất quan tâm đến ngoại giao. Tuy vậy cũng có một số nước ít quan tâm, họ chú trọng nhiều hơn đến đối nội. Bhutan là một trong những nước như vậy. Ở đó nhân dân được hưởng nền tự do, hạnh phúc vào loại bậc nhất của Châu Á và Thế giới, nhưng trong nhiều năm trước đây (và ngay cả bây giờ) Bhutan có rất ít quan hệ ngoại giao với các nước, đặc biệt không quan hệ với Trung Quốc, mặc dầu 2 nước có biên giới chung khá dài. Trong hơn 70 năm qua, đối ngoại của Chính phủ Việt Nam có nhiều thành tích tốt đẹp và cũng phạm phải nhiều sai lầm, thất bại. Thành tích đã được nói và viết nhiều, tôi không phủ nhận, chỉ xin không viết lại. Vì là ý kiến phản biện nên chỉ viết về một số việc được cho là thất bại hoặc sai lầm. Không biết trong các tài liệu mật Chính phủ có tổng kết về chúng hay không, còn công khai không thấy nói đến, hoặc chỉ nói chung chung. Tôi chỉ muốn kể ra và phân tích một vài điều để ai cần thì rút ra bài học và kinh nghiệm.Tôi không làm trong ngành ngoại giao, những điều tôi kể ra chỉ được thu thập từ thông tin đại chúng. Thất bại buổi đầu. Trong thời gian dài trên 5 năm, sau 1945, không có nước nào hưởng ứng lời kêu gọi trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Tiếp theo là sự im lặng của Tổng thống Mỹ khi nhận những bức thư cầu xin, mặc dầu Chủ tịch Hồ đã tìm mọi cách ca ngợi Mỹ, trông chờ vào Mỹ. Tại sao vậy ?. Chính nghĩa, thiện chí, thông minh của chúng ta để ở đâu mà bên ngoài nhìn vào người ta không thấy, không công nhận. Phải chăng là tại sự chống phá của các thế lực thù địch và phản động. Tôi nghĩ rằng sự chống phá cũng có nhưng cơ bản nhất là tại Đảng Cộng sản phạm sai lầm trong việc tuyên bố tự giải tán rồi rút vào hoạt động bí mật. Đó là một mưu đồ lừa dối thiên hạ. Đó là sản phẩm của những đầu óc kém trí tuệ, chỉ quen dùng mưu mẹo trong những việc như đánh du kích và cướp của, cướp quyền. Người ta thừa biết anh dối trá, lừa gạt thì làm sao người ta công nhận anh được, làm sao người ta giúp anh được. Hiệp ước với Pháp. Sai lầm tiếp theo là không tạm nhường Nam Bộ cho Pháp vào năm 1946.Việc này được cho là ý chí kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, được nhiều người ca ngợi. Theo Hiệp ước Nhà Nguyễn ký với Pháp thì Nam kỳ là nhượng địa chứ không phải thuộc địa hoặc bảo hộ. Tháng 7/ 1945 Chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi, tháng 9/ 1945 Pháp đòi lại, ta không chịu trả mới xẩy ra Nam bộ kháng chiến. Nếu khôn ngoan ra, tạm nhường vài năm rồi cũng sẽ thu hồi được. Vụ cố giữ cho được đất Nam kỳ là thuộc loại “Tham bát bỏ mâm “vì phải kháng chiến 9 năm và mất 20 năm chia cắt với không biết bao nhiêu xương máu và thù hận để thống nhất. Cuối cùng thống nhất được lãnh thổ trong sự chia rẽ dân tộc, cái giá phải trả quá đắt. Hiệp định Genève. Hiệp định chia cắt đất nước ở vĩ tuyến 17. Nghe kể rằng Phạm Văn Đồng phải lau nước mắt khi ký. Chúng ta tính rằng nếu phải tạm thời chia cắt thì ranh giới ở vĩ tuyến 14. Nếu đấu tranh quá căng mà phải lùi thì cũng không thể đến vĩ tuyến 16. Nhưng rồi bị sức ép của Chu Ân Lai mà Phạm Văn Đồng ngậm đắng nuốt cay chấp nhận vĩ tuyến 17. Đây là do kết hợp giữa 2 yếu tố: sự đểu cáng của Chu và sự hèn yếu của Phạm. Nếu so với những sứ thần của VN trong lịch sử như Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Đỗ Khắc Chung, Lê Quý Đôn, Phùng Khắc Khoan… thì Phạm Văn Đồng kém xa. Ông Đồng kém vì thiếu dũng khí trước Chu Ân Lai và Môlôtôp, và cũng tại vì Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản VN mắc nợ người ta quá nhiều, chịu lệ thuộc quá nhiều. Phải làm theo lệnh nước ngoài thì có khác gì chính phủ bù nhìn. Đuổi đại sứ Mỹ. Sai lầm ngoại giao một cách ngờ nghệch mà tưởng là anh dũng và thông minh là việc đuổi đại sứ Mỹ ở Sài gòn ngày 30/4/1975 bỏ chạy bằng máy bay trực thăng. Khi quân giải phóng tiến vào Sài gòn ngày 30 tháng 4, Đại sứ Bân cơ cho nhân viên ra đi trước, còn mình ở lại đến phút cuối cùng. Ông ta chờ một lời mời ở lại. Lời mời đó đã không có để rồi VN phải mất 20 năm, chịu không biết bao nhiêu sự cấm vận, cực khổ mới nối lại được. Đó là sai lầm của những người thừa kiêu ngạo mà thiếu trí tuệ. Hội nghị Thành Đô. Sai lầm nguy hiểm là Hội nghị Thành Đô 1990. Ba nhân vật chủ chốt hồi đó là Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười thay mặt Đảng Cộng sản và Nhà nước VN đã cúi đầu nhận thần phục Trung cộng. Theo Nguyễn Cơ Thạch (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hồi đó) thì với hội nghị này VN sắp bước vào thời kỳ Bắc thuộc mới đầy nguy hiểm. Đó là hành động ngoại giao đầu hàng. Thuật đu dây. Hiện nay nhiều người cho rằng VN đang thực hiện thuật đu dây giữa Mỹ và Trung Quốc. Người này cho là đúng, là hay, ngươì khác lại phê là sai, là dở. Xem qua lịch sử vài ngàn năm của các nước thấy rằng, đã có những nước giữ được ổn định và phát triển nhờ thuật này, nhưng cũng nhiều nước vì đu dây mà lâm vào cảnh lên bờ xuống ruộng, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than. Nước Trịnh thời Xuân Thu (Đông Chu Liệt Quốc) là một thí dụ. Để sử dụng có hiệu quả thuật đu dây cần phải có một số điều kiện. Thế mà theo tôi VN đang thiếu các điều kiện đó. Tạm kể một vài sai lầm và thất bại điển hình, còn có thể kể ra nhiều nữa, nhưng tạm dừng để bàn thêm chuyện khác. Điều quan trọng trong ngoại giao (cũng như trong các quan hệ khác) là phải biết mình, biết người, phải tôn trọng phương châm đối ngoại trên cơ sở của đối nội và phục vụ cho đối nội, đối với các nước bạn bè phải trung thực, chân thành, hạn chế đến xóa bỏ bệnh sĩ. Về biết mình. Trong nhiều năm chúng ta tự đánh giá quá cao, như là lãnh đạo vô cùng sáng suốt, nhân dân vô cùng anh hùng, rồi tự huyễn hoặc, tự vẽ phấn tô son. Biết đâu rằng thực chất trong nhiều năm, VN chỉ là anh lính xung kích của phong trào cộng sản, mà cụ thể là nằm dưới sự điều khiển của Trung Quốc. Tự hào là một nước nhỏ mà đánh thắng 2 đế quốc lớn. Thực ra có phải như thế đâu. Trong chiến tranh ta chỉ là anh lính xung kích, đánh Mỹ thay cho Liên Xô và Trung Quốc. Ta bắn rơi được vài ngàn máy bay Mỹ, giết được vài vạn lính Mỹ thì ngược lại Mỹ cũng gây ra cho ta những thiệt hại nặng nề hơn về của và người. Ta nói Mỹ vào xâm lược VN, ta đã đánh thắng và đuổi đi. Mỹ nói họ vào để ngăn chặn tên lính xung kích của cộng sản Trung Quốc lan xuống vùng Đông Nam Á. Nhận thấy rằng bằng một vài cách khác ngăn chặn được rồi, đạt mục đích rồi thì họ rút ra, họ không có mục đích xâm lược, họ muốn vào thì vào, muốn ra thì ra. Trong khi ta đem lực lượng không những của toàn quốc mà còn có một phần của Trung Quốc và Liên Xô để đánh nhau với một đội quân vài vạn người, chỉ gồm một phần nhỏ của quân đội Mỹ mà cho rằng đánh thắng đế quốc Mỹ thì quả thật đã huyênh hoang một tấc đến trời. Cho rằng đã đánh thắng được Pháp và Mỹ thì rồi việc gì ta cũng làm được là một lập luận vô cùng sai trái, thế mà người ta cứ tuyên truyền mãi. Đến thời kỳ xây dựng trong hòa bình mới lộ rõ mọi sự yếu kém và sai lầm. Nhưng đã lỡ mồm khoác lác về tài năng, về sáng suốt. Đâm lao phải theo lao, phải tiếp tục tuyên truyền ta khôn, ta giỏi. Về biết người. Trong chiến tranh với Mỹ nhân dân thế giới thương hại nhân dân VN, ủng hộ, cứu trợ cho nhân dân chứ họ chẳng yêu quý gì thể chế cộng sản mà nhà nước theo đuổi. Và họ thương hại chứ không nể trọng. Nếu có cảm phục thì chỉ cảm phục trong thời gian ngắn về đức tính chịu hy sinh gian khổ trong chiến tranh, còn trong việc đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền thì họ coi thường, coi khinh. Với nạn thuyền nhân thì họ càng kinh ngạc và phẫn nộ. Ngày nay một số không ít người Việt ra nước ngoài bị nhiều người sở tại cảnh giác, xem là bọn ăn cắp và gây rối. Với các quốc gia, chúng ta có quan hệ ngoại giao với rất nhiều nước, ký nhiều hiệp định hợp tác toàn diện và chiến lược, nhận được một số viện trợ ODA, nhưng thử hỏi có nước nào thân thiết với ta như kiểu quan hệ giữa Mỹ với Nhật hoặc với Nam Hàn. Mang tiếng có nhiều bạn nhưng khi mà bị mắc kẹt vào ý thức hệ cộng sản thì không thể nào có bạn thân thiết trong những nước theo chế độ dân chủ. Họ đi lại, quan hệ với ta chỉ là theo hình thức ngoại giao. Quan trọng là ta đã biết Mỹ và Trung Quốc đến đâu. Với Mỹ, từ trước 1945 Hồ Chí Minh rất muốn thân thiện. Vì kiên trì cộng sản và dối trá mà không nhận được giúp đỡ, chúng ta bị Mao Trạch Đông lừa gạt mà nhận định sai về họ, xem là kẻ thù không đội trời chung. Bây giờ tuy đã có thay đổi nhiều nhưng vẫn chưa đạt được như mong muốn. Với Trung Quốc, quan hệ trong lịch sử là khá phức tạp giữa phụ thuộc, bạn, thù. Ngày nay đa số nhân dân xem Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp với tham vọng bá quyền, muốn thôn tính Việt Nam; nhưng lãnh đạo nhà nước lại chịu khuất phục, chịu lệ thuộc và đàn áp những người dân chống Trung Quốc. Đây là một mâu thuẫn quá nặng nề, làm hủy hoại sự thống nhất ý chí dân tộc. Về đối nội. Quan trọng và cơ bản nhất của đối nội là giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân, nó gồm cả 2 mặt: hợp tác và đấu tranh xử lý mâu thuẫn. Về vấn đề này ở Việt nam có nhiều quan điểm khác lạ với rất nhiều nước dân chủ. Với một hệ thống 3 tầng (đảng, chính quyền, mặt trận) chồng chéo, dẫm đạp lên nhau, sự quản lý nhà nước của VN thuộc loại tồi tệ, kém hiệu quả, lãng phí vào loại bậc nhất thế giới. Chính quyền tồn tại nhờ vào 2 thế lực chính, công an và tuyên truyền, nhưng lại bất lực trước nhiều tai họa của xã hội, của môi trường. Mấu chốt nhất là lãnh đạo vẫn kiên trì con đường Mác Lê XHCN, họ cho rằng đó là nguyện vọng của toàn dân, trong lúc dân chẳng được hỏi ý kiến. Phân tích qua như vậy để thấy đối ngoại của VN không hoàn toàn tuân theo nguyên tắc xuất phát từ đối nội và quay về phục vụ cho đối nội. Về bệnh sĩ. Đây là loại bệnh không gây chết người, lại làm cho người ta sung sướng, tự hào trong chốc lát, nhưng mang lại tai họa trong bản chất và lâu dài. Có lẽ người Việt mắc bệnh sĩ thuộc hạng nặng nhất thế giới. Bệnh này có nguồn gốc từ trong những yếu kém của nền văn hóa dân tộc, gặp được môi trường thuận lới là đường lối tuyên truyền của cộng sản mà nó phát triển nhanh chóng, rộng khắp. Trong nước bệnh sĩ biến tướng ra bệnh thành tích dỏm, là việc chạy khen thưởng, huân chương, danh hiệu anh hùng, danh hiệu gia đình và đơn vị văn hóa, nông thôn mới, bằng cấp dỏm các loại v.v… Ra nước ngoài, hễ thế giới có cuộc thi gì thì Việt Nam cố chọn vài người, tập trung huấn luyện, bồi dưỡng thật lực, không kể tốn kém, đi thi mà kiếm lấy huân chương, để khoe khoang là chủ yếu, chẳng cần đại diện cho một cơ sở nào, còn tình trạng lạc hậu của các nghành nghề thì mặc kệ trời đất. Thì đấy, năng suất lao động thuộc loại thấp nhất mà thợ đi thi tay nghề đạt huy chương vàng, giỏi nhất khu vực; giáo dục xuống cấp trầm trọng mà học sinh thi thế giới môn nào cũng được vài huy chương vàng bạc. Xin mời độc giả xem Video: NÓNG - Thanh Hóa đánh nhau to: Bí thư Trịnh Văn Chiến bị Chủ tịch “đâm sau lưng” thế nào? Hễ thế giới có Công ước gì mới thì VN là một trong những nước ký đầu tiên. Ký xong, tuyên truyền xong rồi để đó, không cần thực hiện. Có được các di sản vật thể và đặc biệt là phi vật thể nào thì cố mà chạy để UNESCO công nhận. Một số điệu hò, điệu hát thi nhau chạy, theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”. Cái điệu hát A ở vùng kia được rồi thì điệu hò B của vùng ta tốn bao nhiêu cũng cố mà chạy cho được chứ. Phải chi tiêu khá tốn kém để chạy được rồi, tổ chức ăn mừng rồi, xong thì để đó, chẳng dùng làm gì, chẳng mấy ai nhớ tới, chỉ là để thỏa bệnh sĩ trong thời gian ngắn. Ở Liên hiệp quốc, có cơ quan gì thì ta cố chạy, cố vận động các nước ủng hộ để vào cho được. Vào được Hội đồng nhân quyền trong khi nhân quyền trong nước bị nhiều nơi lên án. Vào được Hội đồng bảo an trong lúc đất đai và biển đảo mất dần vào tay bọn bành trướng Trung cộng. Vào được Ủy ban luật pháp trong khi những bản án oan sai và bị tẩy chay ngày càng nhiều. Như vậy phải chăng vào các co quan của Liên hiệp quốc là chỉ để thỏa mãn bệnh sĩ. Rồi rất nhiều đoàn cấp cao tấp nập đi lại thăm nhau. Trong việc thăm này cái lợi cho những người tham gia, sự tốn kém của công quỹ là rõ ràng, còn Quốc gia, nhân dân được gì không, hiệu quả như thế nào thì chưa thấy ai khảo sát và tổng kết. Vài lời chốt lại. Cứ nghe báo cáo và tuyên truyền một chiều thì mọi người tưởng nhầm là thành tích và tài năng đối ngoại của chúng ta trong hơn 70 năm qua thuộc loại nhất nhì thế giới và rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc. Viết ra vài điều phản biện, lật lại để xem mặt trái của tấm huân chương, may ra có thể cung cấp được vài thông tin và ý kiến cho những người tử tế, còn có lương tri để tránh bớt nhầm lẫn, chỉ biết nghe tuyên truyền một chiều. GS. Nguyễn Đình Cống (Ba Sàm)
  4. Trước hết, xin cám ơn Tiến sĩ Từ Huy với bài viết trên đã nêu ra cho cộng đồng Người Việt Hải Ngoại (NVHN) những vấn đề thiết thực, đồng thời cũng rất nhức nhối cho những ai còn băn khoăn, suy nghĩ về vận nước. Sau nữa, xin được góp vài ý kiến, cùng nhận định bài viết. Chữ viết nghiêng là trích trong bài của Ts Từ Huy. Trọng tâm bài viết của bà Từ Huy nằm ở đoạn trích sau đây: “Làm thế nào để thành lập được một hoặc một số liên minh chính trị mạnh của người Việt ở hải ngoại, hoạt động được như ‘Liên minh quốc gia vì dân chủ’ của Miến Điện? Chúng ta chỉ trích đảng cộng sản Việt Nam yếu kém, không có khả năng cải cách, không có khả năng thay đổi. Nhưng hãy nhìn vào chính chúng ta để nói xem bản thân chúng ta có khả năng thay đổi hay không, bản thân các tổ chức đang tồn tại có khả năng cải cách hay không, và chúng ta có khả năng hình thành các tổ chức mới hay không…” Đây là câu hỏi rất hay, rất thiết thực, vì hơn 41 năm đã trôi qua, tại hải ngoại từ năm 1975 đến nay, dường như chỉ có hai lần, một liên minh chính trị công khai được thành lập. Lần đầu tiên năm 1982, đó là liên minh thành lập đảng Việt Tân của ông Hoàng Cơ Minh (Mỹ), với tổ chức Phục Hưng Việt Nam (PHVN) của ông Trần Văn Sơn, tức nhà văn Trần Bình Nam (Mỹ), nhóm Việt Nam Tự Do (VNTD) của ông Đỗ Thông Minh, Ngô Chí Dũng (Nhật). Tuy nhiên liên minh này nhanh chóng tan rã vì nhiều lý do nhưng không bàn đến trong phạm vi bài viết này. Ngoài liên minh này ra, tổ chức Phục Hưng VN của ông Trần Văn Sơn, vào đầu thập niên 90 đã tìm cách liên minh với tập hợp Dân Chủ Đa Nguyên của ông Nguyễn Gia Kiểng nhưng dường như liên minh này không đem lại nhiều kết quả như mong muốn nên sau đó không còn nghe nói tới. Cho đến nay người viết không thấy có thêm liên minh chính trị nào khác đúng nghĩa, có đủ khả năng yểm trợ hoạt động cho các phong trào đòi hỏi tự do, dân chủ, đủ uy tín liên kết các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam. Nguyên nhân tại sao? Nguyên nhân đầu tiên có thể do tình trạng các tổ chức chính trị, đảng phái trong cộng đồng NVHN ngày nay quá yếu kém, rời rạc, hoạt động thường xa rời quần chúng nên khó phát triển, kết nạp thêm đoàn, đảng viên mới. Tư duy lãnh đạo của nhiều tổ chức, đảng phái đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với tình thế, xã hội, môi trường sống, điều kiện sinh hoạt mới. Từ đó dẫn đến nguyên nhân thứ hai là những người lãnh đạo e ngại liên minh với các đảng phái, tổ chức khác, tổ chức của mình sẽ bị nuốt mất. Người Việt hải ngoại thế hệ đầu tiên chưa hoặc được trang bị rất ít tinh thần làm việc chung trong một nhóm (team work), trong đó mọi người đều bình đẳng. Một nguyên nhân khác nữa là các tổ chức, đảng phái ở hải ngoại không có chương trình phát triển, kế hoạch thu hút, tuyển mộ cảm tình viên, hoặc đào tạo, huấn luyện cán bộ, đảng viên mới. Ít khi thấy các hội đoàn, đảng phái… tổ chức sinh hoạt ở các trường đại học có nhiều sinh viên Việt Nam như picnic, hợp ca, văn nghệ… là nơi có nhiều nhân tố trẻ, đầy nhiệt huyết, thuận lợi cho việc phát triển cơ sở. Một liên minh chính trị, theo thiển ý – khi chưa thể liên minh vĩnh viễn để trở thành môt tổ chức thống nhất – không nhất thiết đòi hỏi các tổ chức, đảng phái phải có cùng môt mục tiêu dài hạn, mà có thể liên minh trong từng mục tiêu trụ mốc. Nếu đặt mục tiêu tối hậu là đem lại tự do, dân chủ cho đất nước nhưng khác nhau về phương thức thực hiện thì nên tìm các mục tiêu dài hạn như yểm trợ việc tranh đấu thành lập công đoàn độc lập, các mục tiêu trụ mốc giống nhau như – liên lạc những nhà ngoại giao, dân biểu… nhờ họ tăng sức ép lên nhà cầm quyền CS, đòi hỏi các phiên tòa xử những người yêu nước phải công khai, yểm trợ dân oan biểu tình đòi công lý… – để cùng nắm tay nhau đi môt đoạn đường. Trong một chế độ tự do, dân chủ, một liên minh chính trị được thành lập từ nhiều nhóm hay đảng phái do nhu cầu đòi hỏi sự kết hợp để tạo đủ sức mạnh, đủ lá phiếu trong quốc hội, nhằm thay đổi một đường lối, một chính sách, chủ trương, một đạo luật của chế độ… do đó liên minh chính trị không nhất thiết phải kéo dài lâu. Vì vậy, để có thể liên minh với nhau trong các mục tiêu trụ mốc, các cá nhân, nhóm xã hội dân sự, đảng phái, nên có những hợp đồng rõ ràng về sự liên minh. Nếu quan sát sinh hoạt chính trị của nước Đức, dễ dàng nhận thấy chính quyền luôn luôn được thành lập bởi một liên minh cầm quyền giữa các đảng phái CDU (Dân chủ-Thiên chúa giáo – Christlich Demokratische Union Deutschlands) SPD (Dân chủ-Xã hội – Sozial-Demokratische Partei Deutschlands) Liên minh Xanh (Bündnis 90/Die Grünen) FPD (Đảng Dân chủ – Tự do – Freiheitliche Partei Deutschlands) PDS (hậu thân của đảng cộng sản Đức – Partei des demokratischen Sozialismus). Trong các lần bầu cử, vì thường không có đảng phái nào đạt được đa số tuyệt đối trong quốc hội liên bang (trên 51%) nên tùy theo kết quả bầu cử, số ghế nhận được, các đảng phái chính trị Đức bắt buộc phải tìm một liên minh để có thể đạt được 51% hoặc hơn số dân biểu hầu thành lập chính phủ. Những liên minh cầm quyền này có khi là SPD-B90/Grünen, CDU-FPD hoặc CDU-SPD… Khi liên minh với nhau để cầm quyền, các đảng phái chia nhau các chức vụ quan trọng như thủ tướng, phó thủ tướng, các bộ trưởng… Đó cũng là lý do mà một người Đức gốc Việt, bác sĩ nhãn khoa Philipp Rösler trở thành phó thủ tướng Đức trong liên minh CDU-FPD trong 2 năm 2011-2013 khi ông là chủ tịch đảng FDP. Hơn thế nữa, khi đi tìm cách liên minh, các tổ chức, đảng phái trong cộng đồng NVHN thường cố gắng tìm một nhân vật lãnh đạo cho liên minh, người mà mức độ uy tín khả dĩ đem lại niềm tin cho người khác, từng có môt quá trình hoạt động thiết thực trong cộng đồng, trong thực tế sinh hoạt. Chính điều này tạo ra khó khăn trong việc liên minh vì rất nhiều người có tâm, có tầm nhưng chán ngán sinh hoạt hội đoàn, tổ chức, đảng phái… nên không tham gia hoạt động. Do đó để có thể liên minh với nhau, các tổ chức, đảng phái nên tìm một người có khả năng kết hợp, dung hòa được những khác biệt của nhau, hơn là một người có uy tín. Nhưng nếu chỉ liên minh với nhau trong từng mục tiêu trụ mốc, thì việc tìm người lãnh đạo cho liên minh không nhất thiết phải có. Bài Từ Huy viết: “Việc thành lập được một liên minh chính trị mạnh ở hải ngoại sẽ là một bằng chứng cho khả năng thay đổi của người Việt, bằng chứng cho tính cộng đồng và tính trách nhiệm của người Việt. Đồng thời chắc chắn điều này sẽ là một động lực mạnh mẽ cho các hoạt động chính trị đối lập ở trong nước, và sẽ góp phần quan trọng cho việc giải quyết các vấn đề chính trị tại Việt Nam, nghĩa là sẽ có đóng góp cho sự duy trì và phát triển của quốc gia”. Đoạn trích trên cho thấy ước vọng cao đẹp của bà Từ Huy, tuy nhiên dù đưa ra những ý kiến, nhận định trên, người viết thấy ước vọng này thật khó lòng trở thành hiện thực trong tình trạng hiện nay. Từng tham dự nhiều sinh hoạt cộng đồng, tham gia vào tổ chức, đảng phái ở hải ngoại, nhận thấy nhiều người Việt Nam, sau nhiều năm sống trong một môi trường tự do, dân chủ vẫn thiếu ý thức cộng đồng, lẫn tinh thần trách nhiệm, vẫn chưa trang bị được cho mình tinh thần tranh luận, biết lắng nghe. Người ta dễ dàng hận thù, ganh ghét, chửi bới, vu khống nhau chỉ vì tranh giành một chức tước hữu danh vô thực, địa vị chủ tịch, phó chủ tịch… trong cộng đồng, tổ chức. Một ông nhà thơ được bầu làm chủ tịch văn bút VNHN, thế là chỉ muốn làm chủ tịch vĩnh viễn, muôn năm trường trị, tìm đủ mọi cách bắt vít ngồi lại chức vụ. Một ông giáo sư già 80 tuổi, chỉ vì không được thuyết trình, chiếu phim trong các lễ kỷ niệm hàng năm trận chiến Hoàng Sa năm 1974 của Hải Quân VNCH ở San José, tức giận tìm cách phá thối, tuyên bố sẽ tổ chức lễ kỷ niệm nơi khác, cùng ngày, giờ. Một tổ chức hoạt động chính trị nhỏ, chưa có hoạt động gì nổi đình đám cho lắm, ngân quỹ mới chỉ vài chục ngàn đô la thì các lãnh đạo đã tranh giành quyền nắm giữ cơ sở kinh tài… Tinh thần trách nhiệm, tính cộng đồng, thay đổi tư duy nào ở những người này? Người có tâm, có tầm chán ngán, buồn rầu, thở dài, im lặng nhìn cảnh đấu đá, xâu xé nhau ở những danh vọng, chức tước hư ảo, không dám lên tiếng cũng bởi thiếu tinh thần trách nhiệm, sợ bị chụp mũ, vu khống. Không biết thế hệ thứ hai, thứ ba của cộng đồng NVHN sẽ làm được gì cho quê hương, đất nước, dân tộc nhưng thế hệ thứ nhất dường như đã hỏng. Ước vọng của tiến sĩ Từ Huy có rất ít triển vọng trở thành hiện thực. Thạch Đạt Lang (Ba sàm)
  5. Không có “người cộng sản tốt” mà chỉ có những người tốt bị lầm lạc vì tin theo cộng sản! Mà đã lầm lạc, tiếp tay gây đại họa cho dân tộc, thì phải ăn năn sám hối, phải công khai chống đảng để cứu nước! Milkhail Gorbachev, một người CS đã giật sập chế độ CS. Nguồn: internet Nhân đọc 2 bài viết mới đây của quý anh Bùi Minh Quốc “Người Cộng sản chống Cộng” và Nguyễn Đình Cống “TÁC DỤNG PHỤ HAY TAI HỌA TẤT YẾU SINH RA TỪ CỘNG SẢN”, thấy 2 anh nhận xét khá giống nhau ở một điểm là người theo “cộng sản thuở ban đầu là tuyệt vời”! Họ là những người “yêu quê hương, đất nước”! Họ “hãnh diện được là đảng viên”. Nhưng với thời gian, đặc biệt là sau khi cộng sản nắm trọn quyền lực, thì bản chất cộng sản thật tốt đẹp ban đầu đó đã bị “phản ứng phụ” (như “side effect” thuốc trị bệnh) làm đảo lộn. Bị tha hóa! Cái “phụ” nguy hiểm với bệnh nhân trở thành tác nhân “chính” nên gây ra đại họa! Đó là lý do dân tộc đang rơi vào thảm họa như hiện tại! Hai anh cũng dẫn chứng vài mẩu người đã sống/chết vì lý tưởng cộng sản và ca ngợi họ. Thử, chỉ một ví dụ thôi, là sau chiến thắng Điện Biên phủ, đưa đến Hiệp định Geneve về Việt Nam chia đôi đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam cai trị phía Bắc từ năm 1954. Ngay sau đó là chiến dịch Cải cách Ruộng đất “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” thì những đảng viên “yêu nước”, đảng viên “tuyệt vời” đó có biết nội vụ hay không? Có đồng lõa với biến cố “long trời lở đất” đó hay không? Nếu biết, mà yên lặng, là đồng lõa! Đồng lõa với việc tàn sát đồng bào (!) như vậy họ có là “tuyệt vời”, là “yêu nước” hay không? Nếu biết, nhưng sợ, nên im lặng (?) thì họ có xứng đáng được ca ngợi hay không? Nếu không biết một biến cố kinh hoàng như thế (?) thì khá rõ ràng là họ không sáng suốt! Không sáng suốt thì đương nhiên phải lầm lạc! Nói rõ hơn là mù quáng! Người mù quáng có đáng được ca ngợi hay không? Đã đành, động cơ ban đầu là yêu nước nên họ tin cộng sản rồi theo cộng sản! Theo cộng sản, rồi tuyệt đối trung thành với đảng nên không còn suy xét nữa! Vậy là ngu trung! Điều nầy làm tôi nhớ đến hôm trao đổi với hai anh Huỳnh Nhật Tấn và Mai Thái Lĩnh. Hôm đó anh Huỳnh Nhật Tấn kể về một người thân trong gia đình, là giáo viên. Cô giáo đó nguyên là một người dạy tốt. Tư cách tốt. Được mọi người quý mến. Vì thế, những ngày đầu sau 30 tháng 4 năm 1975, trở thành “đối tượng đảng”. Rồi trở thành đảng viên. Điều lạ là ngay khi trở thành đảng viên thì thái độ của cô bỗng dưng đối khác hoàn toàn. “Có cái gì đó rất kỳ lạ, rất khó giải thích”! Đó là nhận xét của người trong gia đình! Bấy giờ cô giáo tân đảng viên chỉ có ca ngợi đảng. Phút chốc cô lột xác, khác biệt hoàn toàn với bản chất con người cũ bình thường của cô! Cũng dịp đó, tôi được nghe kể, sau khi bài phỏng vấn 2 anh Huỳnh Nhật Hải và Huỳnh Nhật Tấnvề lý do từ bỏ đảng do Bác sĩ Phạm Hồng Sơn thực hiện được phổ biến, một người bạn trong nhóm sinh viên tranh đấu trước kia đã viết thư gửi 2 anh, có ý trách: “Tại sao 2 anh lại xin lỗi phía bên kia?” Người đó nhận được câu trả lời là: “Không phải chúng tôi xin lỗi phía Việt Nam Cộng Hòa mà là xin lỗi cả dân tộc Việt Nam!”. Và, theo dư luận, phải chăng Giáo sư Tương Lai cũng trách cố Luật gia Lê Hiếu Đằng một câu tương tự khi luật gia công bố thư từ bỏ đảng trên giường bệnh? Anh Huỳnh Nhật Tấn cũng cho biết là 2 anh đã thấy rõ bản chất cộng sản từ ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 nên tự ý tách rời khỏi Tổ chức cả một thời gian rất dài, trước khi bài phỏng vấn được thực hiện! Hoàn toàn đồng ý là thuở ban đầu ít ai thấy rõ bản chất cộng sản, nhưng vì lý tưởng cao quý, vì muốn bảo vệ công nhân, nông dân, là thành phần bị bóc lột tàn nhẫn thời thực dân Pháp đô hộ, nên họ đã chọn con đường đi theo cộng sản. Nhưng tại sao biến cố vĩ đại 1989 tại Đông Âu, khởi đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, cả thế giới đều biết, và với thời đại internet hiện tại thì coi như “hầu hết người Việt Nam” đều biết, mà họ chưa thức tỉnh? Hơn thế nữa, hàng trăm cuộc đình công của hàng vạn công nhân, nông dân phản đối sự bóc lột tàn tệ của các tập đoàn tư bản hoang dã nước ngoài đang cấu kết với lãnh đạo các cấp của đảng cộng sản Việt Nam và bị đàn áp dã man… thì “đảng viên cộng sản chân chính” không hề nghe/ biết hay sao? Nếu biết, sao chưa thức tỉnh và hành động cụ thể như các ông Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Văn Trấn… gần hơn là Lê Hiếu Đằng… rồi Đoàn Văn Vươn, Đặng Ngọc Viết… hay hàng vạn người dân 4 tỉnh miền Trung đang xuống đường phản đối Formosa hủy diệt môi trường sống, và mới nhất là Đặng Văn Hiến, vụ Đắk Nông vừa xảy ra? Chỉ biết rằng những đảng viên cộng sản đã hy sinh trong cuộc chiến “chống Mỹ – Ngụy xâm lược”, “giải phóng đồng bào miền Nam khỏi áp bức, bóc lột…” cần phải được trân trọng cho dẫu đến hôm nay, nếu họ còn sống, họ có thức tỉnh hay không là điều không ai có thể khẳng định được. Nhưng vì họ đã chết, chết trên đường tranh đấu mà động cơ là lòng yêu nước (dù bị cộng sản lừa bịp) nên sự hy sinh là thiêng liêng, phải được trân trọng! Máu xương họ đã thấm đẫm, đã hòa vào lòng đất Mẹ hoàn toàn khác với những nghĩa trang liệt sĩ “hoành tráng” được xây cất ồ ạt khắp nước mà không ai dám chắc những hài cốt được chôn trong hàng vạn ngôi mộ đó có đúng là xương cốt của họ hay không chứ chưa dám nói trong đó có chứa… xương thú vật! Còn những đảng viên hiện tại đang thầm lặng “chống đảng”, hay tiếp tục “minh oan” cho đảng… đương nhiên là những người đồng lõa với tội ác. Vì, khi họ vào đảng đã “tự hào”, đã “hãnh diện” và đã làm ngơ với tội ác (như dẫn chứng bên trên) thì khi sự thật bị phơi bày rõ ràng trước mắt họ phải ăn năn, phải thức tỉnh! “Công trạng” càng nhiều tội càng nặng (!) như ý một câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Bùi Minh Quốc chính ta đã “đúc nên chính cỗ máy này”! Còn nếu không hành động cụ thể, thì chắc chắn họ chỉ “đóng vai thức tỉnh” theo “cơn gió thời cuộc” nhưng thực chất chỉ vì quyền lợi phe cánh, cá nhân và gia đình! Do đó không có “người cộng sản tốt” mà chỉ có những người tốt bị lầm lạc vì tin theo cộng sản! Mà đã lầm lạc, tiếp tay gây đại họa cho dân tộc, thì phải ăn năn sám hối, phải công khai chống đảng để cứu nước! Hồ Phú Bông (Ba Sàm)
  6. Ngày 2.11 sắp tới là ngày giỗ lần thứ 53 của Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông, Cố vấn Ngô Đình Nhu. Trên facebook mấy hôm nay có nhiều người viết status, viết bài, đăng hình đi viếng mộ hai người, có cả hình Đức cha Miace Hoàng Đức Oanh, Nguyên Giám mục giáo phận Kontum và đoàn đồng tế dâng lễ giỗ cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 31.10.2016. Đức cha Miace Hoàng Đức Oanh, Nguyên Giám mục G.p Kontum, chủ tế lễ giỗ tại phần mộ của Cố Tổng thống G.B Ngô Đình Diệm, tại nghĩa trang Lái Thiêu. Đáng nói là trong những người đi viếng có nhiều người trẻ, sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, bao nhiêu năm bị tuyên truyền nhồi sọ những điều tối tệ về ông Diệm và chế độ VNCH, nhưng nhờ có internet, nhờ tiếp xúc với những nguồn thông tin bên ngoài, họ đã dần dần nhận ra sự thật.Năm tháng lùi xa, lịch sử dù bị bưng bít, bóp méo bởi những người “thắng cuộc” nhưng cuối cùng sự thật vẫn được sáng tỏ.Sự thật đã cho thấy rằng, nếu so sánh giữa hai con người, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì Tổng thống Ngô Đình Diệm mới chính là một con người thật sự yêu nước, có tinh thần quốc gia, tinh thần dân tộc, có khát vọng xây dựng một nước VN độc lập, giàu mạnh, tự cường về nhiều mặt đối với ngoại bang. Tổng thống Ngô Đình Diệm mới chính là con người có đời sống cực kỳ thanh bạch, không có một chút tai tiếng nào trong đời tư.Trong khi đó, ông Hồ Chí Minh, người trước khi là lãnh tụ của đảng cộng sản VN đã từng làm việc cho đảng cộng sản Nga, đảng cộng sản Trung Quốc, mới chính là tội đồ của dân tộc khi đem học thuyết ngoại lai Mác Lênin, đem mô hình xây dựng đất nước của Nga Sô, của Tàu về áp dụng rập khuôn bất chấp có phù hợp hay không. Chính ông Hồ Chí Minh mới là người có tư tưởng phụ thuộc nặng nề vào Nga, Tàu, mê tín những lãnh tụ của Nga, Tàu như Stalin, Mao Trạch Đông…Chính ông Hồ Chí Minh là người quyết tâm nhuộm đỏ miền Nam, biến VN thành tiền đồn đánh Mỹ của phe XHCN, bất chấp cái giá máu xương mà dân tộc phải trả.Bên cạnh đó, càng ngày người ta càng khám phá ra những mảng tối trong con người, cuộc đời của ông Hồ, chuyện vợ con trai gái, cả bí ẩn chưa được bạch hóa rằng ông Hồ có phải là Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc hay đó là hai con người khác nhau, ông Hồ có phải là người Tàu v.v…Về nhân vật Hồ Chí Minh, rõ ràng là còn rất nhiều bí mật sẽ phải được công khai một ngày nào đó.Và nếu so sánh những điều Tổng thống Ngô Đình Diệm đã làm được cho miền Nam trong thời gian tại vị, đã đặt những nền móng ban đầu để xây dựng một chế độ VNCH tự do, ấm no, nhân bản trong hoàn cảnh rất nhiều khó khăn lúc ấy với chế độ XHCN ở miền Bắc và ngay cả với các nước láng giềng trong khu vực thì càng thấy tầm nhìn, năng lực của Tổng thống và bào đệ của ông.Người ta hay nói chế độ Ngô Đình Diệm là độc tài, gia đình trị nhưng khi dân trí chưa cao và đất nước lại còn phải đối phó với họa cộng sản thì rất khó để mà dân chủ một trăm phần trăm. Cứ nhìn các nước Đài Loan, Singapore vào những năm tháng đó và cả nhiều năm sau, những người lãnh đạo của họ có độc tài hay không. Quan trọng là người lãnh đạo có tài, có tầm, là người yêu nước thương dân, biết chọn con đường đúng cho đất nước, có khát vọng đưa đất nước trở thành giàu mạnh, phú cường, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Những điều đó có lẽ đúng với Tổng thống Ngô Đình Diệm hơn là ông Hồ Chí Minh hay các lãnh đạo kế tiếp của đảng cộng sản, những con người luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trên lợi ích của quốc gia, dân tộc.Tổng thống Diệm cũng là người có hoài bão đi tìm một học thuyết, chủ thuyết phù hợp với dân tộc.“Và Sử gia Henry Fairbanks đã tóm tắt sự thật lịch sử này bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tưạ đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal, như sau:“Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục laị những giá-trị cổ-truyền làm nền tảng cho giaỉ-pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác laị đi tìm những học thuyết ngoaị lai. . . .Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến-sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đuổi một lý-tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện một nhà-nước được xây dựng trên những giá-trị cổ-truyền tốt đẹp nhất của Á-châu và Tây-phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền-lơị chung và tôn trọng nhân-phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã-Hội Chủ-nghiã và Tư-bản Chủ-nghiã đều là những học-thuyết cực-đoan cần có một hình-thức trung-gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá-trị ưu-tú nhất của cả hai để phục vụ cho lơị ích chung: công bằng đối với người này là tự-do của kẻ khác, cũng như loaị bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ-nghiã cá-nhân.” (21-9-1962, tr.516) (“Chủ-Nghiã NHÂN-VỊ: Con Đường Mới, Con Đường của Tiến Bộ?”,Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn)Đó chính là chủ thuyết Nhân-Vị, coi trọng con người.Vẫn biết rằng lịch sử không có chữ “nếu”. Nhưng rõ ràng nếu Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu không bị đảo chính và bắn chết năm 1963, lịch sử miền Nam và kể cả lịch sử VN có lẽ đã khác.Những điều Tổng thống Ngô Đình Diệm nói cách đây bao nhiêu năm như những lời tiên tri:“Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo."Ngô Đình Diệm (Khánh Thành Đập Đồng Cam, Tuy-Hòa 17-9-1955).Rõ ràng sau 50 năm, hai trong số những hậu quả lớn nhất mà đất nước này, dân tộc này đã và đang phải chịu dưới sự cầm quyền duy nhất của đảng cộng sản, đó là VN đang phải đối mặt với nguy cơ bị lệ thuộc vĩnh viễn bởi Trung Cộng, và một xã hội bị suy đồi, tàn phá về mặt đạo đức. Nhân cách con người bị méo mó.Những sự tụt hậu về kinh tế, kể cả văn hóa, giáo dục rồi cũng sẽ xây dựng lại được nhưng con người bị hỏng về mặt tư duy, đạo đức, thì sẽ mất thời gian hơn rất nhiều.Xã hội VN bây giờ con người đối với nhau quá ác. Không có ngày nào mở tờ báo ra, bật TV lên mà chúng ta không đọc, nghe thấy những tin tức về cái ác hoành hành. Trong những vụ án xảy ra hàng ngày, trừ những vụ có động cơ, mục đích từ đầu là cướp, hiếp, thù oán cá nhân (những vụ này cũng ngày càng táo tợn, dã man) thì đáng sợ hơn là những vụ đánh, giết nhau chỉ vì những chuyện hết sức ngẫu nhiên, nhỏ nhặt; kẻ thủ ác trước đó là những con người hoàn toàn bình thưởng, chưa có tiền án tiền sự, có thể là bất cứ ai, thuộc bất cứ thành phần nào trong xã hội. Học sinh ngay từ nhỏ đã đánh nhau, làm nhục nhau, lột quần áo, bắt liếm chân…như kẻ thù. Dân đánh nhau, giết nhau. Quan bắn dân. Quan bắn quan. Giết người lạ đã đành, cha mẹ chị em con cái chồng vợ đâm chém nhau, tạt axit, đốt xăng, giết nhau…đầy rẫy.Nguyên nhân thì các nhà báo, nhà giáo, các nhà xã hội học cũng đã chỉ ra nhiều. Nhưng rõ ràng những hành động độc ác bộc phát ấy là hệ quả của những bức bối dồn nén bên trong. Bức bối vì đủ thứ bất công, trái tai gai mắt, quá nhiều những sức ép trong đời sống hàng ngày. Nhưng sâu xa hơn, đó là hệ quả của một xã hội và một nền giáo dục không coi trọng con người.Nhìn vào đâu cũng thấy cái ác. Dân ít học ác với nhau đã đành. Người có học, có vị trí xã hội, cái ác lắm khi có tác hại lớn hơn. Ví như người làm báo, làm truyền thông không có lương tâm có thể bằng những bài báo, chiến dịch quảng cáo không trung thực hại nhiều người. Những người buôn bán, sản xuất hàng hóa không có lương tâm thì cho đủ thứ chất độc hóa chất vào thực phẩm, thản nhiên làm hại đồng bào. Các công ty, nhà thầu không có lương tâm, làm ăn gian dối, gây ra bao nhiêu tai nạn lao động.Chức càng cao mà tâm không có thì tác hại càng lớn. Trong vụ bão lũ ở miền Trung vừa qua, những nhà máy điện thản nhiên xả lũ làm chết hàng chục con người và đẩy hàng trăm, hàng ngàn người khác vào cảnh mất mát tài sản, trắng tay. Một chữ ký của những kẻ có quyền chức cho phép khai thác bauxite ở Tây Nguyên, cho phép vận hành nhà máy thép Formosa dẫn đến những thảm họa môi trường gây thiệt hại nặng nề hàng chục năm cho đất nước, cho dân tộc. Nhưng sự vô lương tâm, cái ác chưa dừng lại ở đấy. Họ tiếp tục bao che, bảo vệ cho thủ phạm, trù dập người dân đứng lên biểu tình đòi Formosa bồi thường, họ tiếp tục đặt bút ký cho phép những dự án phá hoại môi trường khác, nào nhà máy thép ở Cà Ná Bình Thuận, nhà máy kẽm ở Lăng Cô Huế…Họ thản nhiên bán rẻ đất nước này, tương lai của dân tộc này chỉ vì quyền và tiền. Vơ vét trong cơn cuồng loạn của những kẻ biết rằng con tàu VN đang đắm và cần phải hốt cho nhanh để rồi tìm bãi đáp ở một nơi an toàn, sung sướng khác.Cái ác, vô lương tâm, cái tâm lý ở trọ trên đất nước mình ấy thật là phổ biến.Cùng với một phần lãnh thổ lãnh hải vĩnh viễn mất vào tay Trung Cộng, sự phụ thuộc ngày càng nặng nề vào Bắc Kinh thì sự méo mó, biến dạng của nhân cách con người là những hậu quả cay đắng nhất mà dân tộc VN đang phải gánh chịu, trả giá. Những điều ấy hơn 50 năm trước hai anh em ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đã sớm nhìn ra trong khi Hồ Chí Minh, thậm chí cho tới những người lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay cũng chưa nhận ra. Song Chi(Blog RFA)
  7. Sự phát triển của phong trào dân chủ tại Việt Nam có lẽ đang là mối quan tâm của nhiều người, đặc biệt là những người mong muốn và tham gia vào quá trình dân chủ hoá đang diễn ra. Liên quan đến điều này, một số người cho rằng phong trào cần một lãnh đạo có uy tín.Trước tiên, cần thống nhất ở danh xưng, lãnh tụ hay lãnh đạo. Danh xưng « lãnh tụ » bao hàm trong nó ý niệm về một cá nhân xuất chúng, với những phẩm chất phi thường, có khả năng thu hút sự ngưỡng mộ và vì thế mà tập hợp và quy tụ được đông đảo các tầng lớp xã hội. Danh xưng « lãnh đạo » nhằm chỉ một cá nhân có một số phẩm chất cần thiết, những kiến thức và những kỹ năng cần thiết để làm công việc lãnh đạo, những phẩm chất này là những phẩm chất ưu tú, nhưng có thể rèn luyện được, không phải là phi thường hay xuất chúng.Vì thế mà một phụ nữ như Aung Sann Suu Kyi, khởi đi từ một phụ nữ của gia đình, chỉ chuyên về công việc nghiên cứu, nhưng với sự ủng hộ của đông đảo người Miến Điện, đã chấp nhận đứng vào vị trí lãnh đạo, và đã tự hình thành cho mình những phẩm chất cần thiết (chứ không hề là phi thường) để trở thành một lãnh đạo của phong trào dân chủ ở Miến Điện.Không ít công dân Mỹ đã chọn ủng hộ một người như Donald Trump trong chiến dịch tranh cử chức tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ông Trump, nếu chẳng may thắng cử, thì ông ấy sẽ là lãnh đạo cao cấp nhất của nước Mỹ, chứ khó lòng gọi ông ấy là lãnh tụ, sau tất cả những gì ông ta bộc lộ trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng.Vì thế, có lẽ người Việt không nên chờ đợi sự xuất hiện của một lãnh tụ xuất chúng, phi thường, mà nên chăng học hỏi người Miến Điện, chọn ủng hộ một nhân vật mang một số phẩm chất nhất định, và có những điều kiện nhất định để tự đào luyện qua quá trình hoạt động cụ thể.Bây giờ có lẽ cần nghĩ đến câu hỏi : trong khu vực nào của xã hội có thể tìm thấy một lãnh đạo của một đảng chính trị đối lập ở Việt Nam ?Dễ hình dung rằng câu trả lời sẽ hướng đến các tên tuổi đã được khẳng định trong phong trào dân chủ. Điều này dễ hiểu, bởi vì việc lãnh đạo một đảng chính trị đối lập ở Việt Nam đòi hỏi ngoài các phẩm chất cần có của lãnh đạo, thì còn đòi hỏi thêm các phẩm chất như là khả năng hy sinh, tinh thần can đảm.Tuy nhiên, những người có các phẩm chất lãnh đạo lại có thể ở đâu đó trong các tầng lớp khác của xã hội. Họ có thể ở trong số những người đang giữ một vị trí trong guồng máy, hay đang hoạt động ở lĩnh vực tư.Nếu có những người mang khát vọng làm chính trị tại Việt Nam thì đây là thời điểm thích hợp để họ bắt đầu xây dựng sự nghiệp của mình. Dĩ nhiên, mấy chữ « khát vọng chính trị » của tôi không phải là được sử dụng một cách ngẫu nhiên.Chính trị đích thực, theo Hannah Arendt, là điều kiện cho tự do của con người, chính trị gắn liền với tự do. Và tôi xin trích lại một nhận định của Václav Havel, người đã trở nên quen thuộc với giới tranh đấu, kể từ khi các tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Việt. Trong một diễn văn đọc tại đại học New York, năm 1991, một năm sau khi ông được bầu làm tổng thống của nước Tiệp Khắc dân chủ, Havel có nói như sau : « Bất chấp cái nền chính trị khốn khổ mà tôi đang phải đương đầu hàng ngày, tôi vẫn tin tưởng một cách sâu sắc rằng trong nguyên lý của nó, chính trị không phải là một « trò bẩn thỉu ». Đúng là có những người làm cho chính trị trở nên bẩn thỉu. […] Nhưng chẳng hề đúng nếu cho rằng chính trị gia buộc phải nói dối hoặc buộc phải gian lận. […] Những kinh nghiệm mà tôi đã có và những gì tôi quan sát được dường như khẳng định rằng chính trị chỉ có thể khả thi khi nó là sự thực hành của đạo đức ». Trích lại nhận định này để nói rằng, chính trị chỉ xấu xa khi người ta làm cho nó trở nên xấu xa, còn trong nguyên lý của nó, chính trị có thể mang đến những điều tốt đẹp nhất cho xã hội người.Nếu có ai đó mang khát vọng làm chính trị như một sự nghiệp nhằm thể hiện năng lực của bản thân và đóng góp cho dân tộc, cho đất nước, thì dù người đó đang ở góc nào trong xã hội, cũng nên nghĩ rằng đây là thời điểm thích hợp để chuẩn bị cho sự xuất hiện của mình. Và mong rằng đông đảo mọi người sẽ ủng hộ người đó nếu thực sự người đó đề xuất một chương trình phù hợp với sự phát triển của Việt Nam.Nguyễn Thị Từ HuyParis, 29/10/2016(Blog RFA)
  8. …Nếu như quả có một cuộc trở về định mệnh như vậy, thật xót xa cho lịch sử hàng ngàn năm của cha ông Việt đã chống chọi, bứt xiềng gông cho con cháu hôm nay. Một cuộc trở về như vậy, có lẽ chỉ có một ít người muốn, còn tất cả còn lại đều đau đớn, căm gan. Nhưng hôm nay, dường như mọi thứ đang “đi tới” chứ không phải “trở về”... Trong một chuyến đi quốc nội, vô tình đoàn người đang xếp hàng lấy vé ra máy bay bỗng xuất hiện vài người khách Trung Quốc. Đó là những người khách hết sức ung dung. Họ ăn nói lớn tiếng, cười to và tự nhiên, không khác gì dân bản xứ. Hàng dài người Việt đang xếp hàng im lặng nhìn. Mỗi người một suy nghĩ. Bất chợt 2 người khách Việt nói với nhau “Không biết mình qua Trung Quốc có tự nhiên được vậy không?”. Lời tán gẫu nhỏ, nhưng lại đủ cho vài người chung quanh nghe. Đột nhiên ai nấy đều cười. Những nụ cười khôn cùng ý nghĩa. “Thì tụi nó qua đây, tự nhiên như nước nó rồi còn gì”, một người khác nói bâng quơ, nhưng như muốn tất cả những người Việt còn lại cùng nghe. Trên mỗi gương mặt Việt lại có một nụ cười. Cũng thật khó tả. Một người đàn ông lớn tuổi, đầu bạc trắng, cắt ngắn, đi dọc với tôi, kể rằng vừa rồi ông gặp một người khách Trung Quốc. Câu chuyện về ranh giới quốc gia, khác biệt dân tộc, chiến tranh… lại nổ ra. Người Trung Quốc rất tự tin, nói rằng từ nhỏ, ông ta đã được học về lịch sử, nói rằng Việt Nam thuộc về Trung Quốc từ ngàn năm, nhưng sau đó làm phản và tách ra. Vì vậy chuyện phải quay trở về mẫu quốc là điều tất nhiên. “Tụi tao có một tỷ người học thuộc điều đó, tụi mày chỉ có một trăm triệu, cãi không lại tụi tao đâu”, người khách Trung Quốc này cười lớn. Dù không ác ý, nhưng sự diễn đạt rất thật của ông làm tôi lẫn người đàn ông Việt tóc bạc khi kể cho nhau nghe, đều nao lòng. Nếu như quả có một cuộc trở về định mệnh như vậy, thật xót xa cho lịch sử hàng ngàn năm của cha ông Việt đã chống chọi, bứt xiềng gông cho con cháu hôm nay. Một cuộc trở về như vậy, có lẽ chỉ có một ít người muốn, còn tất cả còn lại đều đau đớn, căm gan. Nhưng hôm nay, dường như mọi thứ đang “đi tới” chứ không phải “trở về”. Cuối tháng 10, ba chiếc tàu chiến Trung Quốc ghé cảnh Cam Ranh. Chính quyền tỉnh Khánh Hòa huy động người dân và đoàn thể ra phất cờ tiếp đón binh lính Trung Quốc. Chiếc tàu dẫn đầu là Tương Đàm 531, tên gọi của chiếc chiến hạm đã tấn công Gạc Ma năm 1988, thảm sát 64 binh sĩ quân đội nhân dân Việt Nam khi không có khả năng kháng cự. Nhiều năm sau cuộc chiến Gạc Ma, chiến hạm này đã được bán cho Bangladesh, nhưng vì cái tên Xiangtan/Tương Đàm gợi nhớ về chiến công hiển hách năm 1988, nên khi đóng tàu mới, chiến hạm Tương Đàm lại ra đời như niềm kiêu hãnh của ngành hải quân Trung Quốc. Điều khác nhau duy nhất là chiếc Tương Đàm cũ, có số hiệu 556, còn chiếc mới có số hiệu 531. Khi ca sĩ Khánh Ly hát ở Sài Gòn, mọi sự ngăn cấm của các quan chức đều dựa trên ý rằng “không muốn gợi nhớ về một quá khứ không tốt”. Sau năm 1975, hơn 15.000 đầu sách của hai nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam bị đốt, bị cấm và bị truy lùng vì cho là “gợi lại hình ảnh và văn hóa đồi trụy”. Hàng chục ngàn bài hát cùng các văn nghệ sĩ miền Nam bị cấm, cô lập như kẻ thù. Thậm chí có người đã phải vào tù vì có “tội lỗi với nhân dân”… Ấy nhưng Tương Đàm, cái tên đẫm máu người Việt ngang nhiên mang quá khứ đi vào hiện tại, từ Gạc Ma vào nơi quan yếu của Việt Nam, Cam Ranh, lại được chính quyền mở champagne chào đón. Chắc những người được lệnh chào đón ba chiếc tàu chiến Trung Quốc cũng không biết rằng, vào lúc này, Bắc Kinh đã hoàn thành xong vành đai chiến lược để bao vây đảo Trường Sa của Việt Nam. Phi đạn và chiến đấu cơ của Trung Quốc tạo nên một vòng hỏa tuyến từ đảo đá Chữ Thập, Su Bi, Châu Viên, Vành Khăn, Gaven, Tư Nghĩa, nối đến Gạc Ma. Từ đây, Trung Quốc có khả năng uy hiếp trực tiếp Sài Gòn, Cam Ranh và Trường Sa. Tờ Focus Taiwan đưa tin này, mới đây, vào ngày 18/10/2016. Người Trung Quốc chắc không còn nói chuyện Việt Nam trở về, mà hình như họ chọn cách đi tới, vì mọi thứ đều đã thuận lợi. Hôm nay thì chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã chính thức có chính sách mỗi ngày cho 100 xe Trung Quốc lái thẳng vào Việt Nam. Một sự ưu ái khá lạ lùng và sẽ sớm là chuyện của các cửa khẩu ở những vùng khác noi theo, mà chắc con số 100 xe mỗi ngày sẽ dần chỉ là thông báo ước lệ. Không lâu nữa, năm 2018, bởi những ràng buộc bởi Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), một loại thỏa ước thương mại mà Bắc Kinh lập ra để đối đầu với TPP của Mỹ, từ Trung Quốc, các loại động vật sống dùng để nhân giống; nhiều loại thịt, nhiều loại thuỷ hải sản đông lạnh và hoa quả sẽ được miễn thuế 0% khi vào Việt Nam. Thật đúng lúc, giữa lúc bốn tỉnh miền Trung chịu nạn biển nhiễm độc, lũ lụt tàn phá hoa màu, nhà cửa, giới chăn nuôi khánh kiệt… thì ngay lúc họ chuẩn bị hồi phục, đã bị nhấn chìm trong cơn đại hồng thủy nhập khẩu 0% từ Trung Quốc. Tôi có kể với bạn về chuyện người Trung Quốc học lịch sử rằng Việt Nam phải trở về mẫu quốc? Có một sự thay đổi nhỏ, có màu máu và nước mắt, là chính quyền Cộng sản Trung Quốc đang sốt ruột đi tới thật nhanh, chứ không đợi ai đó trở về. Cuộc đi tới này lộng lẫy và man rợ không kém gì các đạo quân của Thành Cát Tư Hãn tràn tới: cỏ không thể mọc, con người chỉ còn biết quỳ xuống và ngửa mặt khóc than vì sao đất nước chúng ta lại đến nông nỗi như vầy. Trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tháng 9 năm nay, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã hứa là sẽ sớm quyết việc thanh toán thương mại Việt Nam - Trung Quốc bằng đồng Nhân dân tệ. Còn bà Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, người tháp tùng Thủ tướng, thì hân hoan nói rằng chuyện này không khó, vì lâu nay các tỉnh phía Bắc đã “thử” làm như vậy rồi. Không biết Quốc hội Việt Nam có biết về việc này không? Liệu Quốc hội mới có ít hơn những kẻ ngủ gục, chơi game và xin nghỉ sớm để lên tiếng về những hiểm họa như vậy? Bất kỳ ai có một học vấn tối thiểu cấp trung học, cũng đều hiểu việc Nhân dân tệ hóa nền kinh tế Việt Nam mang đến nguy cơ lệ thuộc như thế nào. Đặc biệt, Trung Quốc đang “đi tới” rất ào ạt trong sự hân hoan của những kẻ như bà Nguyễn Thị Hồng, và trong với bối cảnh vô cùng thuận lợi khi hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng bộ hô to chương trình chống đô-la hóa bằng Quyết định 2589/QĐ-NHNN, hạ lãi suất tiền gừi bằng đô-la. Trung Quốc đang biến nhiều quốc gia châu Phi trở thành những chư hầu kinh tế, cũng bằng cách dùng nhân dân tệ hóa như vậy. Hiện tại Zimbabwe, Angola và Nam Phi đã trở thành những quốc gia lệ thuộc kinh tế nặng nề vào Trung Quốc khi áp dụng thanh khoản bằng đồng Nhân dân tệ. Bạn nghĩ rằng chỉ là vấn đề thương mại? Áp lực kinh tế này, cũng đã trở thành áp lực chính trị khiến Nam Phi 3 lần từ chối cấp visa cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, chỉ vì muốn ve vuốt Bắc Kinh. Đại hội những người đoạt giải Nobel Hòa bình tại Cape Town ở Nam Phi vào năm 2014, kể cả thị trưởng của thành phố cũng đã tuyên bố hủy hội nghị, nhằm tố cáo vì Pretoria đã cúi đầu trước Trung Quốc. Campuchia cũng vậy, trong vòng xoáy trở thành chư hầu của Bắc Kinh để chống lại Việt Nam, chính quyền này cũng đã ướm việc chính thức thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ, khởi đầu bằng du lịch. Trong câu chuyện mà người đàn ông nói giọng Bắc, tóc bạc, kể với tôi về cuộc trò chuyện với người Trung Quốc. Giọng cười của ông rất sảng khoái. Một người biết ông, nói nhỏ với tôi rằng ông đã cùng gia đình tim đường định cư ở nước ngoài rồi. Có lẽ, vì vậy mà giọng cười của ông rất nhẹ nhàng, tiếng cười của một người đứng ngoài một nồi nước sôi sùng sục, hé nắp nhìn vào. Nhưng tôi và hàng triệu con người khác - những người ở trong nồi - chắc không thể an nhiên được như ông. Vì bởi chúng ta là những người ở lại, là những người không có khả năng ra đi hay đã quyết chọn sống còn trên mảnh đất này. Tôi chắc rằng sẽ không có nhiều những kẻ muốn “trở về” trong chiếc nồi đóng kín nắp ấy. Nhưng chúng ta lại chứng kiến một cuộc đi tới, chà xát mọi thứ, không có sự xót thương di sản cha ông để lại. Cuộc đi tới của những chiến hạm Trung Quốc, của những đoàn xe tự do đi lại trên đất nước này, những đợt cuồng phong áp thuế 0% dẫm nát nông dân Việt Nam, và có thể có cả những đồng Nhân dân tệ mà chúng ta sẽ cầm trên tay để làm quen, không còn xa nữa. Tôi vừa leo ra khỏi nắp nồi ấy, bằng hy vọng và sự thật về quê hương của mình. Và tôi nhận thấy mình có một niềm tin mới, rằng sẽ không có một sự “trở về” hay “đi tới” nào cả. Dân tộc này, đất nước này không thể đi vào khốn khó, nếu người người cùng nuôi hy vọng và nhìn bằng sự thật về đất nước mình, dân tộc mình, và cùng nhau leo ra khỏi nắp nồi đóng kín đó, trước khi quá muộn. Tuấn Khanh (Blog RFA)
  9. Trong bài “Đại bi kịch Việt nam” tôi có viết: “Công nhận rằng những tai họa do sự phá nát, sự hủy hoại này (truyền thống văn hóa, đạo đức, môi trường, đất nước, dân tộc) không phải là ý đồ tự giác của CS, họ không cố tình làm những việc đó, nhưng nó là kết quả tất yếu của đấu tranh giai cấp, của vô sản chuyên chính, của công hữu hóa tư liệu sản xuất, của nền độc tài đảng trị. Những tai họa tất yếu này ban đầu những người CS chưa nhận thấy, đến khi nó bộc lộ rõ thì cố tinh bưng bít, che giấu, ngụy biện để đổ vấy cho các thế lực thù địch”. Bài này xin trình bày rõ hơn. Tác dụng phụ hoặc phản ứng phụ là thuật ngữ thường dùng trong y tế. Thí dụ thuốc chữa đau tim lại có tác dụng phụ làm hại dạ dày, thuốc chữa dạ dày làm hại gan, thuốc chữa gan làm hại thận v.v… Thế rồi một bệnh nhân, chữa được bệnh tim lại bị chết vì suy gan, suy thận. Mà chết vì dùng thuốc chứ ngay từ đầu gan và thận vẫn tốt. Tác dụng phụ của một loại thuốc nào đó là điều không mong muốn, không có trong mục đích của người nghiên cứu tìm ra công thức và người sản xuất thuốc, nhưng là kết quả tất yếu phải xẩy ra, không tránh được khi dùng đúng công thức đó để bào chế. Muốn khắc phục tác dụng phụ thì bắt buộc phải thay đổi công thức. Trong xã hội tác dụng phụ xẩy ra khắp nơi và có khi cái phụ lại chuyển hóa thành chính vì nó tạo ra ảnh hưởng rất lớn, làm mất tác dụng của mục đích chính. Thí dụ thuốc Viagra và vụ Nước mắm có chứa chất asen. Thuốc Viagra được bào chế để chữa bệnh tim. Trong quá trình sử dụng các bệnh nhân phát hiện ra nó có tác dụng phụ làm cương cứng dương vật. Điều này người bào chế không hề biết trước. Thế là người ta chuyển sang dùng nó để chữa yếu sinh lý của nam giới mà phần lớn quên mất mục đích ban đầu là chữa bệnh tim. Vụ nước mắm nhiễm asen, mục đích chính của người tạo ra thông tin là để người dân bớt dùng nước mắm truyền thống và tăng việc dùng nước mắm công nghiệp. Nếu ý đồ này thành công thì có tác dụng phụ là làm sụp đổ một nền sản xuất nước mắm của dân tộc. May thay, nhờ Trời Đất, Tổ tiên phù hộ mà đã kịp thời thoát khỏi tai họa, lúc này lại phát sinh tác dụng phụ khác, quay lại với những kẻ chủ mưu. Sau khi tin nước mắm truyền thống nhiễm asen được tung ra, các cửa hàng nước mắm vội thu lại hàng triệu sản phẩm của Phú Quốc, Phan Thiết…, những kẻ chủ mưu vội vã ăn mừng, chúc tụng nhau vì thắng lớn. Không ngờ rồi “gậy ông đập lưng ông”. Sau khi âm mưu bị vạch trần, họ đang đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn. Vì sao để xẩy ra như vậy? Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa ba tính chất: đểu, tham và ngu. Đã ngu rồi, tính đểu và tham làm ngu trầm trọng thêm. Nếu không quá ngu thì phải dự đoán được những phản ứng, những tác hại có thể xẩy ra. Cái lợi tưởng có thể đạt được đã làm tối trí, làm mờ mắt, làm thối nát lương tâm họ. Thông thường, khi người ta thấy được một mối lợi nào đó hay bị nó quyến rũ, không thấy hết những cái hại đi kèm theo, ẩn nấp đàng sau, sẵn sàng xông ra phát huy tai họa. Khổng Tử có lời khuyên: “Kiến lợi tư nghĩa” (khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa), chứ không phải thấy lợi thì tập trung nghĩ về nó đến mụ mẩm, không thấy cái hại đi kèm. Ở Ba Tư cổ có châm ngôn nổi tiếng: “Khi định làm việc gì phải thấy cho hết những tác hại mà việc đó có thể mang lại”. Những tác hại ở đây chính là các tác dụng phụ, các phản ứng không mong muốn kèm theo. Quay về với chủ thuyết cộng sản. Trong bài “Một số nhầm lẫn của Mác” tôi đã nhận xét Mác là một con người có lòng tốt đối với giai cấp vô sản, là người có một trình độ thông minh nhưng bị hạn chế nên trong khi cố làm những điều tốt đẹp đã phạm một số nhầm lẫn. Lúc còn trẻ Mác vạch ra con đường đấu tranh giai cấp, làm CM với mục đích chống bóc lột, chống áp bức, mang lại sự công bằng xã hội, hạnh phúc cho giai cấp vô sản và hăng hái cổ vũ, đấu tranh cho nó. Đến cuối đời, Mác có nhận ra một số tác dụng phụ nguy hiểm khi CM vô sản đã thành công. Đó là sự lạm dụng quyền lực để rồi tái thiết lập một hình thái áp bức mới. Nhưng đã quá muộn. Người ta vội vàng theo lý thuyết đấu tranh mà coi nhẹ hoặc quên mất tác dụng phụ mà Mác đã chỉ ra. Tuy vậy những tác dụng phụ đó là do Mác suy luận chứ chưa có thực tiễn chứng minh. Sau này khi các đảng cộng sản nắm được chính quyền thì nhiều tác dụng phụ nguy hại mới phát sinh, phát triển một cách mạnh mẽ, không sao ngăn ngừa và khắc phục được, vì nó là kết quả tất yếu, mặc dù không hề mong muốn, không có chủ ý. Thế tác dụng phụ của CS là những thứ gì? Đó là những độc hại chứa đựng trong bản thể của nó. Một cách ngắn gọn và cụ thể, đó là những thứ tệ nạn, tai họa mọi mặt mà bạn thấy trong xã hội Việt Nam hiện nay do sự lãnh đạo và quản lý của ĐCS mang lại. Những người cộng sản đầu tiên của Việt Nam với lòng yêu nước nồng nàn, chỉ thấy mặt tích cực của chủ thuyết CS là theo nó có thể giải phóng được dân tộc khỏi ách thuộc địa và xây dựng một tương lai tươi sáng mà chưa thấy được các tác dụng phụ nên hăng hái, vội vàng du nhập và phát triển. Tác dụng phụ là sự độc tài toàn trị sẽ dẫn dân tộc vào con đường lụn bại. Trong bài “Đuổi hổ cửa trước, rước sói cửa sau” tôi đã phân tích một vài ý như vậy. Khi những tác dụng phụ đã phát tác, một số người cộng sản VN, quá ngây thơ vì giáo điều, chỉ biết tin vào sự tốt đẹp của mục đích hoang tưởng mà không thấy rõ các tác dụng đó là kết quả tất yếu của chủ thuyết nên đã tìm cách quy kết nguyên nhân cho sự phá hoại của các thế lực thù địch, cho bọn phản động hoặc cho một số người không giữ được phẩm chất cần thiết. Họ không biết rằng những con người đó, những hành động đó là sản phẩm tất yếu của chế độ. Trừ một số bọn cơ hội, biết rõ tác hại của CS nhưng vẫn cố duy trì vì lợi ích cá nhân, vẫn còn một số ít người chân thật tin vào mục tiêu tốt đẹp của CS, vẫn muốn kiên trì chế độ chỉ là vì chưa hiểu được bản chất tất yếu của các tác dụng phụ, họ chỉ thấy và bị mờ mắt vì những mục đích tốt đẹp của chế độ CS, mặc dù chỉ là tốt đẹp hoang tưởng. Mà tai ác thay, nguy hiểm thay các tác dụng phụ khi phát triển mạnh lên nó lấn át tác dụng chính, chuyển hóa phụ thành chính, làm thất bại mục đích chính. Vì vậy, bây giờ nhìn vào ĐCS VN người ta thấy tiêu cực là chủ yếu. Tác dụng phụ của CS chính là những độc hại của Chủ nghĩa Mác Lênin (CNML) do thực hiện đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính, công hữu tư liệu sản xuất (đặc biệt là đất đai), do sự toàn trị của đảng. Khi ĐCS còn trong thời kỳ vận động làm cách mạng thì những độc hại này tồn tại tiềm ẩn dưới dạng các hạt giống, chưa có điều kiện bộc lộ, rất ít người thấy được. Vì vậy CS mới lôi kéo, thu hút được khá đông quần chúng đi theo, đăc biệt là quần chúng nghèo khổ bị áp bức và những người yêu nước. Chỉ đến khi ĐCS có quyền lực các hạt giống đó mới nẩy mầm và phát triển lớn mạnh, thể hiện ra dưới trăm hình, ngàn vẻ. Nếu nhân dân VN vào những năm 1945- 1975 mà biết được những tác dụng phụ do ĐCS sẽ mang đến như bây giờ thì số người theo Đảng làm CM chắc sẽ giảm đi nhiều và lịch sử có thể đã rẽ theo hướng khác. Hồ Chí Minh cũng phần nào thấy được một phần những độc hại này, đã viết “Sửa đổi lề lối làm việc” để cảnh tỉnh đảng viên và cán bộ về những tác dụng phụ của CS khi đảng đã nắm trọn quyền lực. Rồi Đảng tổ chức học tập đạo đức của ông, ra hết nghị quyết này đến nghị quyết khác, lập hết ban này ban nọ để phòng chống tiêu cực, họp hành, kiểm điểm, phê bình, đấu tranh, kỷ luật, xét xử, đả hổ diệt ruồi v.v…, mong rằng ngăn ngừa được, chống lại được những tác dụng phụ của chế độ. Nhưng những biện pháp đó chỉ như xoa chút dầu cao ở ngoài da để trị bệnh trong tim, trong gan ruột. Trong quá trình đấu tranh cho dân chủ, một số người phản biện, bất đồng chính kiến, vì lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà hơi vội vàng quy cho CS những tội nặng mà những đảng viên có lòng yêu nước chân chính khó chấp nhận. Thí dụ trong một bài viết gần đây (Bảo tồn văn hóa Việt trước sự xâm lăng của phương Bắc – Đào Đức Thông), tác giả cho rằng: “Hậu quả của đất nước Việt Nam ngày hôm nay là do sự đểu cáng, dối trá, tàn ác mang danh XHCN nắm quyền”. Rồi tác giả đặt ra các câu hỏi: Ai đã làm việc xấu xa này, ai đã gây ra tệ nạn kia, ai đã chủ mưu tai họa nọ v.v…, và ám chỉ đó là ĐCS. Quy tội cho ĐCS là không sai. Tuy vậy vẫn chưa hoàn toàn đúng vì hai nhẽ: 1- Đó không phải là chủ tâm, là mục đích chính của ĐCS mà chỉ là tác dụng phụ tất yếu kèm theo (nhưng khổ thay cái phụ đang chuyển hóa thành chính). 2- Một mình ĐCS không thể tạo nên mọi tai họa mà còn là do kết hợp với những thói hư tật xấu trong nền văn hóa, trong truyền thống dân tộc. Từ khi thành lập, ĐCS VN là một tổ chức tuyệt vời, nhưng tiếc thay đã ẩn giẩu trong nó những mầm mống độc hại của tác dụng phụ mà rất ít người biết. Những thế hệ đảng viên đầu tiên phần lớn là những chiến sĩ tuyệt vời. Nhưng rồi tác dụng phụ dần dần phát sinh. Trước hết là vinh dự và quyền lợi của đảng viên. Tác dụng này hấp dẫn, lôi kéo một số bọn cơ hội tìm cách vào đảng để có quyền, có lợi. Hơn nữa trong thời gian dài sự tuyên truyền và việc kết nạp đảng viên phạm phải nhiều sai lầm từ trung ương đến các chi bộ, trong đó có những sai lầm nghiêm trọng, (*) nên đã kết nạp khá nhiều bọn cơ hội. Thế rồi bọn chúng chui sâu, leo cao. Bọn này mua chuộc, liên kết với những đảng viên, được tiếng là trung kiên nhưng kém trình độ để tìm mọi cách loại bỏ tiến đến hủy hoại thành phần tinh hoa của dân tộc (vì thành phần này là kẻ thù của bọn chúng). Kết quả là trong Đảng, trong Chính quyền và Quốc hội còn lại phần lớn là những người vừa tham lam, thích quyền lực mà kém trí tuệ, lại bị một bọn đểu trong nước và nước ngoài lừa gạt. Những người như vậy mà lãnh đạo, mà đề ra đường lối chính sách, mà soạn thảo và thông qua luật pháp thì làm sao mà không phạm sai lầm. Những người như thế làm sao phát hiện và tránh được âm mưu thâm độc của bọn Đại Hán bành trướng để dâng đất, dâng biển cho nó, để cho nó thao túng chính trị, kinh tế, văn hóa. Nhiều người cho rằng mọi sự bất cập là từ thể chế, việc quan trọng trước hết là thay đổi thế chế, điều đó là đúng, tuy vậy nghĩ cho kỹ thì thấy cũng là do trình độ con người. Thực ra trong Đảng, Chính quyền, cơ quan dân cử các cấp cũng còn có một số người tử tế, có trình độ và đạo đức, nhưng tiếc thay số này quá ít nên khó phát huy tác dụng. Tác dụng phụ của CS cũng gần gần giống vụ Formosa. Khi Formosa xả thải ra biển thì mục tiêu chính có lẽ chỉ là gian lận, trốn tránh các chi phí xử lý cần thiết khoảng vài chục triệu đô la. Nghĩ rằng rồi biển rộng mênh mông sẽ hòa tan chất thải và che giấu được sự gian dối, không ngờ đâu lại gây ra thảm cảnh như vậy. Kết quả biển nhiểm độc, thủy sản chết hết, hàng triệu người lâm vào tình cảnh phá sản. Thật ra đó là tác dụng phụ. Nhưng tác dụng phụ gây ra tai họa vô cùng to lớn, hủy diệt luôn mọi lời tuyên truyền tốt đẹp về mục đích chính là phát triển kinh tế. Cũng cần phân biệt đảng và đảng viên. Những tác dụng đối với đảng là phụ, nhưng lại là mục đich chính của bọn đảng viên cơ hội, đã chui sâu và leo cao trong đảng. Xin hỏi các vị từ Tổng bí thư, UV BCT, cán bộ đảng các cấp cho đến đảng viên các loại, các vị có thấy rằng những tệ nạn như tha hóa quyền lực, tham nhũng, mua quan bán tước, suy thoái đạo đức v.v… đều là tác dụng phụ của sự độc quyền toàn trị của ĐCS hay không, và nó trở thành mục đích chính của số đông các đảng viên có quyền lực hay không. Các tác dụng ấy, các mục đích ấy là kết quả tất yếu, không tránh khỏi, không thể ngăn ngừa hoặc loại bỏ bằng các biện pháp thông thường. Mà nguy hại thay các tác dụng đó đang hủy diệt mọi lời tuyên truyền tốt đẹp về mục đích của các vị là xây dựng xã hội thế này thế kia. Muốn loại bỏ tai họa phải triệt hạ từ gốc rễ, nghĩa là phải từ bỏ sự độc quyền toàn trị, mở rộng dân chủ để tìm người thực sự có tài kinh bang tế thế lên lãnh đạo đất nước. Mấu chốt là cải cách đảng cách mạng thành một đảng chính trị. Thế mới trước thì cứu được dân tộc, sau cứu được đảng. Nếu các vị quả thật chưa thấy rõ những điều trên, nhưng còn tử tế, còn muốn tìm kiếm chân lý thì xin mở các cuộc trao đổi, đối thoại. Không cần công khai cũng được, nhưng phải thành tâm. Tôi sẵn sàng đến trao đổi thẳng thắn với quý vị. Nếu các vị cứ khăng khăng tự cho mình là đúng mà không chịu tìm hiểu, không chịu đối thoại, vẫn quyết giữ bằng được sự toàn trị thì rồi dân tộc này sẽ phải kéo dài bất hạnh thêm một thời gian nữa, nhưng cuối cùng, không sớm thì muộn cũng sẽ tìm cách thoát được sự độc tài toàn trị và các vị sẽ được đánh giá lại trong lịch sử bằng những lời lên án và sỉ nhục. (**) (*) Đoán rằng cho đến nay nhiều tổ chức và cán bộ của Đảng, kể cả Tổng BT và Trưởng ban tổ chức vẫn chưa nhận ra việc kết nạp đảng viên phạm nhiều sai lầm ở những chỗ nào, nếu được hỏi tôi sẽ trình bày. (**) Bài này đã được gửi đến địa chỉ: [email protected] để nhờ chuyển đến BCT và các cơ quan của Đảng. GS. Nguyễn Đình Cống (Bauxite) Đăng bởi Tiểu Nhi on Sunday, October 30, 2016 | 30.10.16
  10. Trong cuộc CÁCH MẠNG LẬP QUYỀN DÂN – cuộc cách mạng nhằm thiết lập quyền làm chủ thực sự của nhân dân, tiến hành một cách ôn hoà, công khai, hợp hiến hợp pháp – có một lực lượng đặc thù, về mặt nào đó là khá quan trọng, làm những việc mà các lực lượng khác không dễ làm thay. Đó là lực lượng những người cộng sản chống Cộng. Nhà thơ Bùi Minh Quốc. Nguồn: Trương Duy Nhất Bây giờ, hai tiếng “Cộng sản” chợt nghe đã khiến người ta muốn ói. Bởi đó là tên gọi của một thế lực quỷ dữ, một thế lực kết xoắn mọi độc ác và dối trá, một thiết chế của chế độ nô lệ mới. Nhưng vào thời trẻ của tôi ở miền Bắc Việt Nam, những năm 60 thế kỷ 20, danh xưng người cộng sản là hiện thân của một phẩm chất cao quý. Đó là con người đặt Tổ Quốc lên trên hết, Quyền Dân lên trên hết. Vì Tổ Quốc và Quyền Dân, con người ấy dâng hiến cả đời mình, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy, tù đày, chết chóc. Tôi đã thấy những con người như thế trong đời thực. Đó là vợ tôi, nhà báo nhà văn Dương Thị Xuân Quý, luôn nghiêm khắc tự rèn luyện cho đạt những phẩm chất ấy để trở thành đảng viên và đã hy sinh anh dũng trong quá trình rèn luyện. Đó là Chu Cẩm Phong, bạn tôi, nhà báo nhà văn, người cán bộ đảng, bí thư của chi bộ Văn nghệ Khu 5 (thuộc Ban tuyên huấn Khu 5). Chu Cẩm Phong ghi trong nhật ký ngày kỷ niệm 7 năm anh vào đảng : “ Mình có thể hy sinh trong mùa xuân lịch sử này lắm, nếu mình ngã xuống như Phương Thảo, Văn Cận, Xuân Quý, thì ba mình và nhất là mẹ, sẽ đau khổ đến nhường nào. Mình biết điều đó. Mình là đứa con trai được cả nhà yêu thương… nhưng dầu thế nào mình cũng không xê dịch cái phương châm sống của mình: dũng cảm, say sưa và quên mình như những chiến sĩ cộng sản chân chính đi trước. Dẫu ngã xuống một giờ, nửa giờ trước khi ta giành thắng lợi hoàn toàn, cũng Hạnh phúc lắm thay!”. Chu Cẩm Phong luôn sống gương mẫu và đã hy sinh anh dũng dưới hầm bí mật trong một cuộc chiến tuyệt đối không cân sức vào tuổi 30. Những dòng nhật ký vừa dẫn trên cho ta biết, vậy là Chu Cẩm Phong đã thấy trong đảng có những người cộng sản chân chính và những người cộng sản không chân chính – tức là những phần tử có động cơ xấu tìm cách chui vào đảng đội danh cộng sản để mưu lợi riêng. Trong lớp người cộng sản chân chính đi trước, tôi đã thấy những Kim Ngọc, những Trần Độ, Nguyễn Hộ, Võ Văn Kiệt… Đó là những chiến sĩ cách mạng đích thực đến trọn đời, họ luôn lấy lợi ích của Tổ Quốc của Nhân Dân, lấy thực tế khách quan làm căn cứ để suy nghĩ và hành động, dám nghĩ, dám nói, dám làm, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, tuyệt đối không nghĩ và làm theo bất cứ giáo điều chủ nghĩa nào, cho dù có thể bị khại trừ, bị cách chức, thậm chí có thể bị hãm hại. Vào thời ấy, những người cộng sản chân chính chiếm đa số trong đảng. Điều lệ đảng xác định: đảng viên là “người chiến sĩ cách mạng tiền phong gương mẫu, gắn bó máu thịt với nhân dân”. Thời ấy, phần lớn đảng viên đã sống như thế, và vì thế đại đa số nhân dân mới tin đảng đi theo đảng và nhờ thế mới giành được thắng lợi để đưa đảng lên cầm quyền trên một nửa nước rồi cả nước. Nhưng khi cầm quyền, và nắm độc quyền chính trị, đảng trở thành chỗ để “ thăng quan phát tài ”. Từ sau năm 1975, nhất là từ khi đảng cầm quyền buộc phải trở về theo cái dòng chảy bình thường muôn đời của nhân loại là kinh tế thị trường, có thể khẳng định mà không sợ nhầm rằng phần lớn đảng viên vào đảng là để thăng quan phát tài. Hiện tượng mua một chân đảng viên, một chân cấp ủy, một chân đại biểu (như ngày xưa “ mua một chân lý trưởng ”), mua chức mua quyền (tất nhiên để có tiền) diễn ra phổ biến mà chưa thấy dấu hiệu gì ngăn chặn được.Và thực tế cho thấy sẽ không thể ngăn chặn được nếu không cải cách chính trị, nếu không có một thiết chế luật pháp buộc mọi hoạt động của đảng – nhà nước phải minh bạch kèm theo là một thiết chế luật pháp đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với mọi hoạt động của đảng – nhà nước . Chủ nghĩa cộng sản là một ảo tưởng, một thiết chế phản động kéo lùi sự phát triển của xã hội, một mối đại hoạ của nhân loại còn khủng khiếp ghê tởm hơn cả chủ nghĩa phát-xít. Nhưng phẩm chất, bản lĩnh, khí phách người cộng sản chân chính thì lại là một giá trị, một sức mạnh có thật. Đó là phẩm chất của những con người quên mình vì mọi người, giàu sang không thể làm hư hỏng, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục mà nhân loại thời nào và ở đâu cũng luôn trân trọng. Tôi nhớ năm 1993, tại Mặt trận Tổ Quốc tỉnh Lâm Đồng, trong cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm TP Đà Lạt và tưởng niệm công lao của bác sĩ Yersin, người phát hiện ra vùng đất để lập nên TP Đà Lạt, TS Hà Sĩ Phu bạn tôi, người đã có 15 năm được coi là đối tượng để kết nạp vào đảng (CSVN), phát biểu : theo những tiêu chí về người cộng sản chân chính thì ông Yersin đích thực là một người cộng sản chân chính dù ông ấy hoàn toàn xa lạ và có thể rất dị ứng với chủ nghĩa cộng sản. Bạn tôi, anh Hồ Hiếu, nguyên chánh văn phòng Ban dân vận thành ủy TP HCM, hiện là một trong những người chống Cộng hàng đầu, ngay sau 30/4/1975 đã đặt ra câu “ đảng viên nhan nhản, Cộng sản khó tìm ” rồi ngầm lan truyền như thành ngữ dân gian nhằm báo động một tình trạng tồi tệ mà hiện nay đã trở nên thảm hại – bình thường : đảng viên ngày càng đông, người cộng sản chân chính – chiến sĩ cách mạng đích thực ngày càng hiếm. Năm 1988, trong chuyến đi Xuyên Việt vận động ra tuyên bố do 128 văn nghệ sĩ và công dân ký tên đòi đổi mới đồng bộ, triệt để, bạn tôi nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự có lời thơ : “ Ai cộng sản / ai giả danh cộng sản / chân lý chói ngời sự thật / mắt nhân dân xuyên suốt lũ gian tà ”, hai tiếng “cộng sản” ở đây là để chỉ người chiến sĩ cách mạng đích thực như đã nêu trên. Cách đây mấy năm, bạn tôi, nghệ sĩ ưu tú Kim Chi, người đã tuyên bố không cần một bằng khen có chữ ký của một kẻ (là quan chức cộng sản hàng chóp bu) làm nghèo đất nước, làm hại nhân dân, khi trả lời phỏng vấn đã khẳng đinh mình tuyên bố điều đó với tư cách một người cộng sản chân chính. Một lô-gích không gì cưỡng nổi : người cộng sản chân chính tất yếu trở thành người cộng sản chống Cộng khi đảng CS cầm quyền trở thành đảng cướp, đúng như dân gian từ xa xưa đã định danh “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Vậy là đã xuất hiện một lực lượng cộng sản chống Cộng, tức là một lưc lượng lấy sức mạnh phẩm chất, bản lĩnh, khí phách của người cộng sản chân chính chống chế độ độc tài cộng sản nhằm thiết lập quyền làm chủ thực sự của nhân dân để bảo vệ nền độc lập của Tổ Quốc và tự do của mỗi con người, và với quyền tự do ấy, mỗi con người phát huy mọi khả năng để mưu cầu hạnh phúc của bản thân và cho cả cộng đồng. Người cộng sản chống Cộng từ nay đương nhiên đã tự rũ bỏ bỏ 2 chữ cộng sản, chỉ tự xác định mình là “người chiến sĩ cách mạng tiền phong gương mẫu, gắn bó máu thịt với nhân dân”. Và họ quyết trọn đời không ngừng tiền phong gương mẫu vì nhân dân quên mình chiến đấu cho Tổ Quốc và Quyền Dân, thiết lập bằng được quyền làm chủ thực sự của Nhân Dân. (Ba sàm) Đăng bởi Ha Tran on Sunday, October 30, 2016 | 30.10.16
  11. Bản tổng kết kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm đưa ra một chỉ số buồn: tăng trưởng chỉ đạt 5,52%, thua gần một điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước (6,32%), thua hơn một điểm rưỡi so với chỉ tiêu của năm (6,7%)và cũng là năm đầu tiên sụt giảm trở lại kể từ 2012- thời điểm gượng dậy sau nửa thập niên ốm yếu. Việt Nam phấn đấu về cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 Vào lúc này khi hơn ba phần tư năm đã trôi qua và Ngân hàng Phát triển châu Á đã đánh tụt dự báo xuống còn 6%, người ta lại đang tìm cách điều chỉnh chỉ tiêu để cuối cùng có thể "kết thúc thắng lợi" một năm không thắng lợi của kinh tế nước nhà. 2016 là năm đầu của kế hoạch 5 năm được hy vọng mở lại một chu kỳ tăng trưởng mạnh, nhưng đã khởi đầu nan. Rất nhiều nguyên nhân được chỉ ra trong phiên điều trần bất thường tại kỳ họp đầu tiên của quốc hội khóa mới cũng như liên tục tại các diễn đàn trao đổi, hội thảo từ đó đến nay; và tất nhiên cả trong kỳ họp Quốc hội cuối năm đang nhóm tại Hà Nội. Không một nguyên nhân nào cho thấy: động lực phát triển đã cạn (kiệt). Có thể khẳng định, những thành tựu của công cuộc Đổi Mới (mà người ta định ồn ào tổng kết 30 năm thực hiện rồi lại im?) được dựa chủ yếu vào hai nguyên nhân: dòng vốn tài chính và kỹ thuật từ nước ngoài đổ vào và những chính sách ( được nhà nước từng bước cập nhật) tương đối phù hợp với một nền kinh tế đã thay đổi về bản chất. Dòng vốn ấy vẫn chảy, thậm chí còn mạnh hơn nhưng đã không còn tính động lực. Vào chính lúc đó, xã hội bùng lên vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng bắt đầu bằng câu chuyện tưởng chừng ất ơ: một ông quan muốn trộ oai tỉnh lẻ với cái biển số xe của mình. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, câu chuyện về cái biển số xe ấy có cùng một nguyên nhân với nền kinh tế yếu kém. Nó đưa lời kêu gọi: cải cách thể chế, đổi mới chính trị, không thể chậm hơn được nữa. Kinh tế tư bản Một số dự án qui mô được bàn thảo ở Quốc hộiImage copyrightREUTERS Nhà nước bảo: đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhiều ý kiến khác: kinh tế xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường. Với tôi, đó là nền kinh tế đang tư bản hóa (những gì gọi là) kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nói một cách chính xác: nền kinh tế chúng ta đang có là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, dù muốn hay không. Nó "tư bản" ở ngay trong cốt lõi quan hệ sản xuất, từ phân phối chế phẩm, tổ chức lao động đến sở hữu tư liệu, cho dù có hay ho gọi là cổ phần hóa chăng nữa. Nó "tư bản" ở chính bản chất kinh tế thị trường. Kinh tế, do quan hệ sản xuất đẻ ra chính trị và đến lượt mình, chính trị lĩnh nhiệm vụ hướng đạo kinh tế phát triển theo quy luật, theo thúc triển nội tại của nó - đây là luận điểm không chỉ riêng của những người Marxist. Để thấy rằng, nghịch lý ở Việt Nam hiện nay là trong khi chúng ta có một nền kinh tế đã thay đổi về mặt bản chất thì chính trị thượng tầng của nó vẫn ngủ quên, vẫn y như cũ, và làm nên nguyên nhân chủ yếu sinh ra vô số tật bệnh không tìm thấy thuốc chữa, kìm hãm phát triển. Công bằng thì cái chính trị ấy cũng có được cải đổi ít nhiều do áp lực của Đổi Mới nhưng chỉ nửa vời lẽo đẽo đằng sau với cái dây "định hướng" tròng trên cổ. Trong nông nghiệp, để "định hướng xã hội chủ nghĩa", ruộng đất không được tư hữu hóa mà thay bằng quyền sử dụng, thì thôi cũng được, nhưng tại sao vẫn không cho phép dân cày (khái niệm dân cày ngày nay đã khác trước rất nhiều) được tích tụ (bằng chuyển nhượng quyền sử dụng) loại tư liệu sản xuất ấy đến mức có thể đầu tư lớn, sản xuất lớn, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội thay vì bỏ ruộng cho cỏ mọc, đi kiếm việc khác sống cho qua ngày? Trong công nghiệp, để "định hướng", đối với những công ty hoặc mặt hàng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến quốc kế dân sinh thì nhà nước vẫn nắm độc quyền hoặc chỉ cổ phần hóa chiếu lệ để trên thực tế, vẫn là thiên đường của quan liêu, tham nhũng : cha chung không ai khóc, tiền chung cứ móc mà xài. Do đó, những công ty này luôn làm ăn thua lỗ và tiền thuế của dân lại được đổ vào để giữ vững "định hướng" trong khi khu vực tư nhân (đã được chính thức coi là động lực tăng trưởng) thì chẳng được một sự ưu đãi nào - kể cả những công ty tên tuổi, làm ăn có mảng, có miếng- nếu chẳng may thất bát. Không có một chính sách tích cực và chẳng có một ngân sách nào dành cho các doanh nhân khởi nghiệp mà vẫn cứ hy vọng sẽ có được một triệu doanh nghiệp trong vài năm tới (và sau đó để chết yểu) là sao? Còn trong lĩnh vực tinh thần - văn hóa, tư tưởng, tuyên truyền, báo chí, giáo dục,pháp luật… - thì sự đổi mới, cải cách càng hiếm đến, bởi nó là chính trị. Rất dễ đồng ý, đây là lĩnh vực hầu như không có sự thay đổi khi đã qua cả bảy chục năm Dân chủ cộng hòa. Công tác chính trị của đất nước vốn dĩ dựa trên nền tảng đấu tranh giai cấp, dựa trên nền tảng lý tưởng hóa những cái được gọi là đạo đức xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa tập thể thì ngày nay vẫn dựa trên nền tảng ấy. Không ai thẳng thắn trả lời, nó còn tương hợp với nền kinh tế thị trường không khi ở nền kinh tế này cái cá nhân, cái tôi tất yếu phải được khẳng định, được tôn trọng. Ai cũng thấy nhưng không ai lên tiếng về tình trạng đạo đức giả đã gần như đặc trưng cho xã hội lúc này. Quốc hội "sản xuất" được khá nhiều luật nhưng ban hành vừa xong lại phải chuẩn bị dự luật sửa đổi. Bàn đến nhất thể hóa - điều mà ngay cả những quốc gia cộng sản còn lại đã thực hiện từ lâu - nhưng thử nghiệm vừa xong lại bỏ vì sợ….độc tài! Mà ai độc tài, ai che dấu cái tôi của mình? Ai điều gì cũng lập luận lấy được? Đẩy thừa con đường này là "do Bác Hồ lựa chọn" để khỏi phải thừa nhận chính mình lựa chọn. Trịnh Xuân Thanh Vụ ông Trịnh Xuân Thanh bị truy nã đang gây chú ý của dư luậnImage copyrightTUOI TRE Trở lại câu chuyện Trịnh Xuân Thanh. Có thể thấy kinh hoàng vì lỗi hệ thống. Nếu không có câu chuyện ông quan tư cách hàng chợ này khoe sang khoe mẽ thì ông ấy sẽ hanh thông tiến lên, chưa biết đâu là điểm dừng. Nhưng vì trót dại, người ta không thể không lôi ra việc " luân chuyển" của ông, người ta đào đến khoản tiền thất thoát khổng lồ (mà thực tế đã được chôn quên trong đống giấy lộn), người ta lần đến ông A, ông B, ông C…. chống lưng. Lỗi hệ thống là đây: Do cơ chế chính trị, Trịnh Xuân Thanh được đưa ra kiểm điểm trong Đảng trước, Đảng kết luận có tội mới chuyển qua công an cảnh sát điều tra. Thấy động lớn, Thanh chủ động xin ra khỏi Đảng và… chuồn êm. Mọi hành động của nhà chức trách đều là vuốt đuôi. Nhưng liệu nó có đi đến hồi kết như người ta mong muốn hay không thì chẳng biết. Quan điểm của tôi: ngay dù đạt được như vậy, có lôi ra lũ lít cả đống chuột mẹ chuột con thì vấn đề vẫn còn nguyên. Tại sao? Chống tham nhũng lại dựa vào các quan điểm và hệ thống chính trị từ thời xã hội chủ nghĩa, từ thuở tất cả đều nghèo, từ thời giàu có đồng nghĩa với vô đạo đức là công việc bất khả, là sai lầm cơ bản. Chưa nói, tham nhũng ở Việt Nam đã phát triển vũ bão kể từ mười lăm năm trước khi còn nương nhẹ gọi một cách phiếm chỉ là "hiện tượng tiêu cực", không ai thực sự muốn ngăn cản nó để bây giờ thì thôi rồi. Công tác cán bộ Tôi không có điều kiện đi sâu, đi rộng trong một bài viết nhưng không thể không đề cập đến khâu đầu: công tác nhân sự, công tác cán bộ. Công tác này được hiểu là việc bổ nhiệm, thăng giáng và điều động nhân sự trong bộ máy công quyền, và nó hoàn toàn đi theo cách làm cũ, một cách làm nhân danh Đảng, nhân danh giai cấp, nhân danh chế độ với cả một quy trình nhiều bước có thể với mục đích tích cực nhưng kết cục trở thành bình phong cho những kẻ bất lương. Không ai tìm hiểu xem, ở một nền kinh tế thị trường đích thực , người ta làm việc đó như thế nào. Và cũng không ai cần biết tại sao các quan chức ở môi trường ấy không coi và không thể coi quyền lực là nơi thu vén lợi ích cá nhân; và khi cần thì họ từ nhiệm rất dễ dàng, rất tự giác mà ở Việt Nam thì không? Đảng Cộng sản Việt Nam có một Hội đồng lý luận và Hội đồng này vừa nhận được huân chương cao quý do Nhà nước trao tặng "vì những thành tựu xuất sắc trong công tác lý luận". Thành tựu ấy là gì không ai biết, mặc dù như tôi, rất hy vọng nó đóng góp được vào việc đổi mới chính trị sao cho theo kịp, sao cho ăn khớp với đổi mới kinh tế. Nhưng tất cả những gì được nghe, được đọc chỉ là chống "tự diễn biến"," tự chuyển hóa", những khái niệm không đầy đủ, không thuyết phục, vừa vô lý về mặt triết học, vừa thiếu vắng về mặt ngôn từ, cụt ngủn. Lãnh đạo Đảng CSVN lo ngại Đảng của ông 'tự diễn biến'Image copyrightAP Chưa nói, tự diễn biến tự chuyển hóa về đâu, đến đâu? Trước đây còn được nghe là chống "diễn biến theo con đường tư bản chủ nghĩa", thì bây giờ không thấy chỉ điểm đến. Mất phương hướng? Nếu vẫn là chống tha hóa về phía tư bản chủ nghĩa thì có thể yên tâm, tất cả những tai to mặt lớn bị Đảng và luật pháp trừng trị vừa qua không thấy cái tên nào bị lên án nhạt nhòa lý tưởng, mất ý chí chiến đấu, phản bội giai cấp cả. Bọn này vẫn phấn đấu vì tập thể, vì chủ nghĩa xã hội đấy, thậm chí còn to mồm hơn tất tật. Không tin cứ hỏi những người xung quanh. Nếu Hội đồng Lý luận thực sự làm được việc thì có rất nhiều vấn đề thiết thực mà Hội đồng này nên làm và cần làm. Chẳng hạn. Hội đồng đã từng giải thích sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu là có sự phá hoại của các thế lực thù địch cộng với sự trì trệ của lãnh đạo. Hãy giải thích xem, đảng cộng sản ở các nước đó bây giờ hầu hết đã đổi tên đổi họ (trở thành các đảng mang tính chất xã hội hoặc xã hội - dân chủ) với cương lĩnh mềm trong một nền dân chủ đa nguyên mỗi người một lá phiếu, nhưng sao vẫn chưa thấy một đảng nào quay trở lại cầm quyền, thậm chí chẳng len được vài xuất nghị trường? Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói người Việt Nam thiếu tư duy khái quát Chẳng hạn. Những đảng vẫn còn hiếm hoi giữ tên cộng sản như Đảng Pháp thì cương lĩnh của họ cũng đã đổi đến tối mũi tối mày. Họ không còn giữ cả biểu tượng búa liềm và thay đổi hẳn quan niệm về sở hữu. Ở Đại hội gần nhất, Đại hội 36 (2/2013), Đảng tuyên bố chủ nghĩa Mác-Lênin không còn sức sống cả trong thực tế và lý luận, và giai cấp vô sản không còn giữ vai trò thúc đẩy xã hội nữa. Vai trò ấy bây giờ nằm trong tay tầng lớp trí thức trong một nền kinh tế tri thức hiện đại. Hãy chứng minh những luận điểm đó là sai! Ông Hồ Chí Minh từng cho rằng người Việt thiếu tư duy khái quát, tư duy hệ thống nên công tác nghiên cứu lý luận "hãy để các đồng chí X (ông nêu tên một nước lớn) làm". Có lẽ đúng, thực tế từng chứng minh. Khi Trung Quốc chống Việt Nam thập kỷ 70, 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã dựa vào Liên Xô để tìm đến các lý thuyết phát triển. Khi Liên Xô rơi vào khủng hoảng, sắp sụp đổ đến nơi thì Việt Nam lúng túng định quay sang nắm áo Romania. Cái quốc gia và đảng của nó mà Việt Nam từng tuân theo Liên Xô đả kích không thương tiếc một thời ấy bây giờ được coi là mô hình độc đáo, vững chắc, được toàn dân ủng hộ. Bất thình lình chỉ một ngày, người Romania nổi dậy và Tổng Bí thư Nicolas Ceaucescu cùng bà vợ quyền lực của ông bị xử bắn trong một phiên luận tội nhanh như chớp mắt. Không còn chỗ bám víu nữa thì may sao, cuộc đại sụp đổ cả hệ thống lại là cơ hội vàng của Việt Nam (đừng nghi ngờ điều này). Câu chuyện sau đó như thế nào chúng ta đều đã rõ. Ổn định trong trì trệ Mặt trái của ổn định là trì trệ, chưa nói thực trạng ở Việt Nam hiện nay là ổn định trong trì trệ. Nên thử làm một cuộc thăm dò khách quan xem phỏng được bao nhiêu phần trăm? Thăm dò kín đáo thôi, khỏi cần công bố, để giật mình mà nhận ra thực trạng của cái gọi là niềm tin. Hiệp định TPP đem lại nhiều cơ hội cho Việt NamImage copyrightGETTY IMAGES Muốn ổn định và giữ cho ổn định có sức sống, nếu chưa thể đổi mới toàn diện về mặt chính trị, hãy chọn những vấn đề trì trệ nhất, cản bước phát triển nhất để đột phá. Hãy coi và phải coi đổi mới chính trị , cải cách thể chế là động lực cho giai đoạn phát triển hiện nay. Giới lãnh đạo Việt Nam đặt nhiều hy vọng vào TPP, Hiệp định về đối tác xuyên Thái Bình Dương. Nhiều người cho rằng TPP sẽ tạo động lực cho phát triển bởi các lợi ích kinh tế, thương mại to lớn có thể sờ nắn thấy được. Nó có những ràng buộc về mặt chính trị nhưng không có chế tài thì Việt Nam vẫn có thể "mềm mại" vượt qua bằng "sách lược" khôn ngoan. Chắc chắn đây là một lầm lẫn tai hại. TPP sẽ là một động lực, nhưng phải nhìn nó dưới góc độ là một Hiệp định thương mại thế hệ mới, hoàn toàn mới. Học giả Trung Quốc Dương Bằng cho rằng, với TPP, một "thời đại thương mại giá trị" được kết nối bằng những "quy tắc chính trị" tự giác đã đến. Người Trung Quốc không phải không muốn tham gia TPP hay bị ai đó gạt ra; họ ngần ngại chính là bởi các ràng buộc chính trị. Gia nhập TPP là chấp nhận các ràng buộc ấy khiến Trung Quốc sẽ phải ở cửa dưới. Ví dụ về các xí nghiệp quốc doanh. Nó sẽ không được hưởng bất cứ một ngoại lệ ưu tiên nào mà còn phải giảm thiểu (khác với Việt Nam, các xí nghiệp, tập đoàn nhà nước ở Trung Quốc vốn rất mạnh). Không chỉ thế, các yêu cầu về quyền tự do tư tưởng, quyền được thông tin, quyền của người lao động…. với TPP là đương nhiên. Học giả Vương Bằng mà tôi vừa nêu trên, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard, trong cuộc trả lời phỏng vấn gần đây trên Đài Tiếng nói Hoa Kỳ cho rằng dù không đề cập trực tiếp đến chính trị nhưng những điều đó tạo nên quy tắc chính trị của TPP và sẽ là quy tắc nguồn tác động đến tất cả. Nó được thực thi một cách tự giác vì làm ngược lại người ta sẽ tự đào thải mình. Không có chế tài ư, lợi ích của chính anh sẽ là chế tài. Việt Nam có nhận thức được như vậy không khi quyết định tham gia TPP? Nhưng những động thái gần đây có thể là đáng ngại khi Quốc hội xem xét khắt khe dự thảo Luật về hội và các dự thảo sửa đổi luật Hình sự, luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh… Chính trị tổng quát là: Mọi việc đều phải trên cơ sở tôn trọng pháp luật và minh bạch. Những gì khập khiễng, nửa vời sẽ đem đến kết quả thậm chí cũng không được nửa vời. Tiến sỹ Vũ Cao Phan Đại học Bình Dương Bài thể hiện quan điểm riêng của Tiến sỹ Vũ Cao Pha, Viện trưởng Viện Chính trị và Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế của Đại học Bình Dương, nguyên Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc. (BBC) Đăng bởi Ha Tran on Saturday, October 29, 2016 | 29.10.16
  12. Thân Tầu hay thân Mỹ? Ảnh chỉ mang tính chất minh họa. Nguồn: Tư liệu Một người bạn hỏi tôi: - Nghe nói ở Việt Nam bây giờ, trong đảng cộng sản có 2 khuynh hướng, một là thân Tầu hai là thân Mỹ, bạn có tin không?Thiệt (là) tình! Hỏi chi không hỏi, lại hỏi ác vậy? Có hai lý do mà tôi không có cách chi trả lời nổi (cho rõ ràng):- Lý do thứ nhất là tôi không ở Việt Nam, thứ hai là tôi không phải đảng viên đảng CS. Anh bạn cười hì hì, phán tiếp:- Tại thấy bạn hay viết bài cho mấy tờ báo mạng, tưởng bạn rành (sáu câu) nên hỏi chơi, cho biết.Rành thì tôi không rành, có điều cũng biết chút chút vài ba phần trăm, nhờ hay nghe hơi nồi chõ. Thôi thì bạn đã có lòng (ái mộ) muốn biết, tôi cũng (ráng) trả lời theo sự hiểu biết của mình, còn trúng trật, không chịu trách nhiệm.Trong thời gian vài năm trở lại đây, nhiều người trong nước cho rằng, trong đảng CSVN có hai khuynh hướng đối nhau nhau quyết liệt, còn gọi là hai phe, phe thân Tầu và phe thân Mỹ. Đại diện cho khuynh hướng thân Tầu là Nguyễn Phú Trọng, thân Mỹ là Nguyễn Tấn Dũng. Đồng thời dư luận cũng nói tới chuyện – Theo Mỹ thì còn nước, mất đảng, theo Tầu thì còn đảng, mất nước. Do đó mà trước kỳ đại hội đảng lần thứ 12, không ít người đã hi vọng Nguyễn Tấn Dũng vừa làm thủ tướng, vừa đắc cử luôn TBT đảng, nắm quyền hành tuyệt đối vừa đảng, vừa chế độ để chuyển hướng bắt tay chặt chẽ với Mỹ. Vì vậy sau khi Ba Ếch bị bắt buộc về quê làm người tử tế, không ít người thất vọng, cho rằng vì Nguyễn Phú Trọng mà dân tộc Việt Nam mất cơ hội thoát Trung.Muốn biết thật sự có 2 khuynh hướng thân Tầu và thân Mỹ hay không, người ta phải định nghĩa thế nào là thân Tầu, thế nào là thân Mỹ? Từ đó mới có thể (đoán) biết được ai thân Tầu, ai thân Mỹ qua những chủ trương, hành động, tuyên bố... của họ.Thân Mỹ chưa hẳn là chấp nhận thay đổi chế độ theo thể chế tự do, dân chủ của Mỹ nhưng nghiêng hẳn về ngoại giao với nước này, đồng thời ký kết những hiệp ước về kinh tế, giáo dục, y tế, liên minh về quân sự, quốc phòng rộng lớn, chặt chẽ... Thân Tầu chắc khỏi cần giải thích, cứ nhìn tình hình xã hội Việt Nam là thấy ngay.Nếu chỉ hời hợt nhìn con gái của Ba Ếch, Nguyễn Thanh Phượng lấy Nguyễn Bảo Hoàng, người Mỹ gốc Việt hoặc căn cứ vào cái bằng Master tốt nghiệp của Phượng ở Thụy Sĩ, sẽ dễ dàng kết luận Ba Ếch thân Mỹ. Tuy nhiên, hãy điểm lại trong gần 10 năm làm thủ tướng 2006-2016, Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố, ký kết, thực hiện được những gì để đánh giá Ba Ếch thân ai:1. Cho Tầu Cộng khai thác Bauxite tại Tây nguyên, dù các nhà khoa học đã đánh giá là dự án khai thác Bauxite tại Tây nguyên rơi vào tay Tầu Cộng rất nguy hiểm đến an ninh, quốc phòng của đất nước vì nhiều lý do như hiệu quả kinh tế kém, công nghiệp lạc hậu của Tầu sẽ tàn phá môi trường, sử dụng công nhân người Tầu thay vì Việt Nam…, điều này trái với luật lao động Việt Nam. Bỏ ngoài tai những lời can gián, những kiến nghị của các thành phần dân chúng, kể cả của tướng Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố:- Khai thác Bauxite ở Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng.Đừng quên rằng các chuyên viên địa chất của COMECON (Council of Mutual Economic Assistance - Hội đồng tương trợ kinh tế Đông Âu, trụ sở ở Moscow do Liên Xô lãnh đạo 1949-1991), sau khi khảo sát, nghiên cứu khu vực Tây Nguyên vào đầu thập niên 80 đã khuyến cáo Việt Nam tuyệt đối không nên khai thác Bauxite ở khu vực này vì ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái cũng như đời sống người dân toàn vùng cao nguyên Trung phần.2. Vụ chấp thuận cho Formosa thuê đất 70 năm được Võ Kim Cự ký kết trong thời gian Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng (tháng 6.2008). Không có sự chấp thuận ngầm của Ba Ếch, liệu Võ Kim Cự dám vượt quyền hạn của mình để làm càn?3. Trong năm 2013, ai ký giấy phép cho công ty chuyên sản xuất mực in Toyo, một công ty có doanh số vài chục triệu USD được phép khai thác nhiệt điện tại tỉnh Hậu Giang với dự án lên tới 3,5 tỉ USD?Trích: "Nguy cơ Trung tâm Nhiệt điện Sông Hậu trở thành căn cứ của Trung QuốcMột công ty mực in từ Malaysia không có năng lực gì đến lĩnh vực nhiệt điện lại được giao thực hiện dự án nhiệt điện than khổng lồ. Quan trọng hơn, phần lớn cổ đông chính của Toyo Ink rót tiền để tập đoàn này “chạy” dự án ở Việt Nam là người Trung Quốc. Với những ai cảnh giác trước âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Quốc có lẽ phải lạnh gáy khi hình dung ra viễn cảnh Trung tâm Nhiệt điện Sông Hậu biến thành căn cứ của Trung Quốc thông qua Dự án Sông Hậu 2 mà Toyo Ink làm chủ đầu tư theo hình thức BOT." (1)Biết như vậy, tại sao Ba Ếch còn để cho trung tâm nhiệt điện này xây dựng hoàn thành?4. Ngày 21.05.2014 khi ghé Philippines trước khi tham dự hội nghị quốc tế về Biển Đông ở Srilanka, Ba Ếch tuyên bố: - "Không đánh đổi chủ quyền lãnh thổ lấy tình hữu nghị viễn vông".Sau lời tuyên bố này, Nguyễn Tấn Dũng đã có những bước đi nào để biến lời nói của mình thành hành động trước sự việc dàn khoan HY 981 ngang nhiên kéo đến, hoạt động trong vùng biển, thềm lục địa của Việt Nam từ ngày 04.05.2016? Hoàn toàn không, một câu lên tiếng phản đối, nhắc đến tên HY 981 cũng không có.Ngoài ra còn vô số các công trình, dự án xây dựng được giao cho Tầu Cộng, tạo điều kiện cho họ dễ dàng thọc sâu chân vào những vùng ảnh hưởng mạnh mẽ đến vấn đề quốc phòng của Việt Nam như cho thuê rừng đầu nguồn 50 năm ở phía Bắc biên giới, các khu Trung Quốc như ở Quảng Trị (Công ty chăn nuôi tại Cửa Việt) cho đến Khu du lịch mũi Cửa Khẻm ở chân đèo Hải Vân (Thừa Thiên - Huế), các khu Trung Quốc dọc bờ biển Đà Nẵng, Bình Định (Khu kinh tế Nhơn Hội tại Quy Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát), Bình Thuận (Nhiệt điện tại Vĩnh Tân), Ninh Thuận (Nhà máy titan tại Sơn Hải), Trà Vinh (Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải)…(2)Vậy thì Nguyễn Tấn Dũng thân với ai? Câu trả lời đã quá rõ ràng. Có điều Ba Ếch điếm đàng, ranh mãnh, không để lộ những cấu kết với Tầu Cộng bằng những lời nói khôn ngoan, mị dân khiến nhiều người tưởng thật, cho rằng Ba Ếch là anh hùng, có tư tưởng chống Tầu, thoát Trung, muốn đi với Mỹ.Chỉ sau khi bị Cả Trọng quất cho một cú hồi mã thương, từ Hà Nội văng tuốt về Kiên Giang đuổi gà, chăn vịt, trở lại nghề y tá chích thuốc theo toa bác sĩ, Ba Ếch mới bị lộ mặt là kẻ bán nước cho Tầu.Còn Nguyễn Phú Trọng thì sao, thân ai?Tiểu sử của Cả Trọng cho thấy, suốt cuộc đời Trọng không hề đụng đến khẩu súng, viên đạn. Trong cuộc chiến xâm lược miền Nam kéo dài 21 năm, Trọng không có tên trong bất cứ đơn vị nào của quân đội nhân dân, dù là ở hậu phương. Trọng chỉ quanh quẩn trong văn phòng với đống sách vở nghiên cứu những tư duy lạc hậu, lỗi thời của kinh điển Mác-Lê. Tuy nghèo nàn kiến thức tổng quát, khoa học, quân sự, kinh tế... nhưng Trọng vẫn leo lên đến địa vị tổng bí thư đảng kiêm bí thư quân ủy trung ương, Vậy Trọng nhờ vào những yếu tố nào để leo lên tới chức TBT? Thật ra chẳng có yếu tố, việc làm nào cho thấy Trọng có khả năng lãnh đạo, chỉ huy... Trọng chỉ có khả năng luồn lọt, nâng bi, chè lá, điếu đóm, ve thuốc... cho các ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh... và được những người này hậu thuẫn lên từng bậc trong con đường hoạn lộ.Khi Ba Ếch trèo lên tới tột đỉnh quyền lực tháng 7 năm 2006, Cả Trọng vẫn là một bóng mờ bên cạnh Ba Ếch, với tiếng nói yếu ớt của một chủ tịch quốc hội, không phe đảng, vây cánh. Những năm tháng đứng đầu quốc hội bù nhìn, không có thực quyền, nhìn Ba Ếch làm giầu, thao túng, phá hoại nền kính tế non yếu vừa hội nhập thị trường tự do của đất nước bằng tham nhũng, rút ruột công trình, ăn cắp, rỉa rói ngân sách... với những quả đấm bằng đất sét như Vinashin, Vinalines...Trọng cay cú, ghen tức, giận tím mặt mà không làm gì được.Tháng 01.2011 được bầu làm tổng bí thư, để thâu tóm tất cả quyền lực vào trong tay, Trọng quyết định dứt điểm Ba Dũng nhanh chóng, bứng Ba Dũng ra khỏi ghế thủ tướng trong nhiệm kỳ đầu của mình. Nhưng vì không có chiến thuật rõ ràng, không lường trước được sức mạnh của kẻ địch, chỉ rị mọ với sách vở, giáo điều, không kinh nghiệm chiến trường, Trọng hấp tấp tấn công Dũng nên bị thất bại ê chề, nhục nhã. Kết thúc hội nghị trung ương đảng lần thứ sáu, đại hội XI tháng 10. 2012, Trọng đã mếu máo, không cầm được nước mắt khi tuyên bố: -Không kỷ luật đồng chí X. Nguyễn Tấn Dũng từ đó chết tên Ba X.Nhưng vốn là một con cáo tinh ma, quỷ quyệt trong lớp vỏ của một con cừu già hiền lành, ngớ ngẩn, lú lẩn, Thất bại lần đầu, Trọng nuốt nhục, âm thầm nghiên cứu tình hình, sắp đặt mưu kế, chờ thời điểm thuận tiện trả thù, rửa hận. Tháng 01.2016, thời cơ tới, Trọng chơi một cú hồi mã thương, chẳng những đá bay Ba Ếch ra khỏi ghế thủ tướng mà cả Sinh Hùng, Tấn Sang, hai kẻ đồng sàng nhưng dị mộng với Trọng cũng đành phải gạt nước mắt, từ giã chính trường đi làm người tử tế.Hạ được Ba Ếch, đá văng Tư Sang, Hùng Hói, Cả Trọng loại được những kẻ nguy hiểm có thể ảnh hưởng đến vị trí TBT của mình. Hả hê, hồ hởi với chiến thắng, Trọng hân hoan tuyên bố: “-Dân chủ đến thế là cùng, không thể dân chủ hơn được”, rồi chỉ hơn nửa năm sau, mạnh dạn tung ra chiến dịch “Đả Hổ, Diệt ruồi”, tìm cách tiêu diệt, thanh trừng Ba Ếch cùng đám đàn em, tay chân…Quá tự mãn với thành quả trong đại hội 12, Trọng quên mất một điều -Trọng không phải là một lính chiến như Ba Ếch, từng lăn lộn chiến đấu, làm giao liên, rồi y tá, chuyển qua công an... nên có nhiều bạn bè, thuộc hạ, đàn em, những kẻ chịu ơn... khắp nơi - Trọng ngược lại, chỉ luẩn quẩn trong mớ sách vở, bám víu vào mớ lý luận lỗi thời với học thuyết Mác-Lê đã bị nhân loại vứt bỏ vào sọt rác, leo lên chức TBT nhờ vào điếu đóm, nâng bi các đời tổng bí thư trước hơn là khả năng, tài cán.Trọng không làm kinh tế nên không có thân nhân, gia đình, con cái du học nơi trời Âu, Mỹ…, không có đàn em, vây cánh, thuộc hạ chằng chịt khắp nơi trong các công trình, dự án, nhà băng... như Ba Ếch. Đây là yếu điểm của Trọng trong cuộc chiến, tranh dành quyền lực, nhưng đồng thời lại cũng là ưu điểm, Trọng được nhiều người đánh giá là trong sạch, thanh liêm.Sai lầm hoàn toàn. Đồng ý Trọng không dính dáng đến những vụ án tham nhũng khủng khiếp làm thất thoát tài sản đất nước đến hàng chục tỉ USD mỗi vụ như Vinashin, Vinalines, Mobifone... nhưng Trọng không thể không nhận được những món quà lại quả từ các công ty khi ký kết các hợp đồng. Chuyện Trọng được tặng hai căn hộ ở Ciputra đã bán sang tay ngay sau khi nhận, hay tượng bán thân già Hồ bằng vàng nặng 50 kg do Formosa tặng, chưa hẳn đã là những tin đồn thất thiệt, chỉ không có bằng cớ chứng minh.Quyền lực thường đi đôi với danh vọng, tiền bạc. Ở vào tuổi 72, lý do nào Cả Trọng vấn cương quyết bám vào quyền lực? Chắc chắn không phải vì yêu nước. Nếu thật lòng yêu nước, đặt quyền lợi đất nước, sự sinh tồn của dân tộc lên trên quyền lợi, sự tồn tại của đảng, vụ Formosa gây ra thảm họa, Trọng đã bắt giam Võ Kim Cự, đích thân đi thăm ngư dân ở các nơi bị thiệt hại ngay sau khi có tin thảm họa để nắm bắt tình hình, mức độ thiệt hại chính xác, ra lệnh điều tra tới nơi, tới chốn, cũng như đã không tuyên bố -Đập chuột nhưng phải giữ lấy bình.Vậy Trọng thân ai? Mỹ hay Tầu? Trọng chẳng thân với ai hết, Trọng chỉ thân quyền lực và bằng mọi giá nắm giữ quyền lực. Trong tình trạng hiện nay của Việt Nam, muốn nắm giữ quyền lực, Trọng bắt buộc phải đi với Tầu cộng, không thể nào đi với Mỹ. Việc Nguyễn Phú Trọng lờ tịt, không đếm xỉa gì đến thảm họa cá chết trên 4 tỉnh miến Bắc-Trung phần, bình thản đi thăm viếng, làm việc với ban giám đốc công ty Formosa vào ngày 22.04.2016, việc tòa án Hà Tĩnh trả lại 506 hồ sơ khởi kiện của ngư dân Nghệ An, đồng thời điều động 2.000 cảnh sát cơ động bảo vệ nhà máy thép Formosa, sẵn sàng đàn áp biểu tình, chứng tỏ rằng với Trọng, đất nước, dân tộc Việt Nam không quan trọng bằng sự tồn tại của đảng CS.Võ Kim Cự ký hợp đồng cho Formosa thuê đất 70 năm trong thời gian Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng, lẽ ra Cự phải nằm trong danh sách của chiến dịch đả hổ diệt ruồi của Trọng, nhưng tay Trọng đã nhúng chàm trong vụ Formosa. Trọng không thể đập Võ Kim Cự vì sợ Cự khai ra tất cả những gì đã ký kết giữa Formosa và chế độ CS. Chiến dịch đả hổ diệt ruồi của Trọng khó lòng thành công, bởi nếu làm mạnh tay, hổ và ruồi sẽ quay lại cùng lúc tấn công thì Trọng khó lòng thọ hết nhiệm kỳ.Để kết luận, Cả Trọng hay Ba Ếch, tất cả đảng viên đang có chức, quyền trong ĐCS, rõ ràng chẳng có phe thân Tầu hay thân Mỹ nào. Chỉ có phe thân tiền và thân quyền đang ấu đả, tranh giành, chiếm đoạt những miếng bánh cuối cùng càng ngày càng teo tóp, rút nhỏ lại của người dân Việt Nam.Sẽ không có một sự tự diễn biến hay tự chuyển hóa êm đẹp nào trong đảng cộng sản VN có thể dẫn đến đa nguyên trong chế độ, bởi những gì sinh ra từ bạo lực sẽ bị hủy diệt bằng bạo lực.27.10.2016Thạch Đạt Lang(VANEWS) Chú thích: (1) http://nguyentandung.org/bong-ma-trung-quoc-dang-sau-du-an-nhiet-dien-song-hau-2-ky-2.html (2) http://www.voatiengviet.com/a/thu-tuong-dung-trong-van-bai-thon-tinh-vietnam-cua-trung-quoc/3145965.html Đăng bởi Thùy Trâm on Thursday, October 27, 2016 | 27.10.16
  13. Trong hầu hết các vụ quan chức địa phương đến từng nhà tịch thu tiền cứu trợ, với lý do để chia đều cho tất cả mọi người, có một tình tiết đáng chú ý: hầu hết những người bị thu tiền đều bất bình nhưng đành im lặng chấp nhận. Tình tiết này gợi lên nhiều suy nghĩ, đặc biệt rằng quan chức địa phương ở Việt Nam đã trở thành loại cường hào ác bá từ bao giờ, mà không ai dám phản đối công khai. Hai tiếng nhân dân giờ âm vang xót xa và chịu đựng. Họ là tầng cuối cùng trên đất nước này, bị dẫm đạp, bị tước đoạt mà không hề dám cất lên một lời phản kháng. Số phận con người hèn mọn như ngọn cỏ trong đất nước mà nơi nào hai tiếng nhân dân cũng được đọc lớn, kẻ hoa. Tự nhiên, tôi nhớ đến con bò thoi thóp sống trong mùa bão lụt vừa qua ở miền Trung. Đôi mắt tuyệt vọng của chú bò. Ảnh: internet Trong trận lụt kinh hồn táng đởm trung tuần tháng 10/2016, Quảng Bình gánh chịu những đau thương không bút mực nào tả xiết. Những con số đếm giản đơn cho biết cả ngàn ngôi nhà ngập đến nóc, ruộng vườn hoa màu chìm trong biển nước. Gà vịt trâu bò chết lặng theo con nước dâng. Những con số đếm nhạt nhẽo nhưng căng phồng hàng ngàn câu chuyện về sống chết và phận người quẫy đạp để sinh tồn. Trên các trang mạng xã hội. Người ta chuyền tay nhau bức ảnh vể một con bò, được chủ nuôi treo đầu cao khỏi mặt nước để không chết chìm, nhưng nước thì đã ngập đến mũi. Đây có thể là bức ảnh bao quát nhất, chỉ có cái đầu và đôi mắt tuyệt vọng, mệt mỏi của con vật, nhưng lại như nói hết, gào thét hết được trong thinh không về con người, về quê nhà, về nỗi đau và tương lai. Không biết bức ảnh mờ nhạt, hay ánh mắt của con bò đã đục dần trong giờ phút hiu hắt của sự sống. Đôi mắt là người ta nhớ đến nhân vật phu kéo xe của Nguyễn Công Hoan. Người đàn ông mệt mỏi, kéo xe kiếm cơm qua ngày, thở dốc với từng ngày sống, mà nhà văn xứ Bắc Ninh mô tả rằng đôi mắt mờ đục, gượng sống như trái nhãn, không còn nhìn thấy tương lai. Cũng cùng trong ngày tháng đó, thế giới chứng kiến một giải Nobel Văn Chương đến lạ, vì giải được trao cho một người chọn một đời hát rong ở Mỹ. Có không biết bao nhiêu là bất bình cũng như hân hoan trước sự kiện này. Thậm chí những người bảo vệ giá trị văn học, coi việc trao giải thưởng này như một sự sỉ nhục đối với giới cầm bút. Vì sao Viện Hàn Lâm Thụy Điển lại có một quyết định bất thường như vậy? Tổng thư ký thường trực của Viện Hàn Lâm Thụy Điển là bà Sara Danius nói rằng Bob Dylan đã là người gợi nhớ lại thời kỳ thi ca Hy Lạp cổ, với những cách sáng tác và phổ biến thơ không khác gì các thi sĩ Homer và Sappho từ hơn 2500 năm trước”. Tạm gác lại các điều tranh cãi về đúng-sai. Điều mà Viện Hàn Lâm Thụy Điển quyết định, cho thấy những cái nhìn đột phá và ngẫu hứng. Nó xác định về các giá trị của nghệ thuật trí tuệ không có lằn ranh và định kiến. Sự sửng sốt của những người chứng kiến giải Nobel Văn Chương 2016, không chỉ là kết quả lạ lùng, mà có cả sự phát hiện về quan điểm của Ban tuyển chọn giải Nobel, mà tường chừng đã quá cũ mòn và bị câu nệ bởi các nguyên tắc, cũng như danh tiếng của chính mình. Cùng một thế giới, cùng một thời gian. Con người ngoài kia mở ra những thách thức và tranh cãi về trí tuệ. Mở ra những lý luận mới về giá trị tinh thần và tương lai. Còn ở nơi đây, Quảng Bình quê chúng ta, người ta chỉ còn loay hoay và cuống cuồng nghĩ ra cách dùng một sợi dây để treo đầu, cứu sống một con bò. Thật nghiệt ngã. Nước dâng cao ngập mái nhà. Ngập ruộng vườn và cuộc sống, lại khiến người Việt nghĩ nhiều hơn về số phận của mình. Không phải thiên tai cố “cực đoan” mà mỗi ngày mưa lũ càng nhiều. Ngay trong các thành phố lớn, mưa chỉ cần kéo dài vài tiếng, nội thành đã không khác gì phố biển. Quảng Bình, Hà Tĩnh, Lào Cai, Cần Thơ, An Giang… khắp nơi đang đối diện với lũ lụt, sạt lở như chuỗi tin dữ của ngày phán xét. Người dân Việt đang phải trả giá cho những gì mà họ không làm. Nỗi oan khiên này cay đắng biết dường nào. Từ năm 1993, người dân xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã kêu cứu khắp các nơi về chuyện Lâm trường Bố Trạch – do ai đó chống lưng, ban bệ nào bao che để cùng chia chác – đã tàn phá liên tục rừng đầu nguồn. Cả tỉnh Quảng Bình có diện tích tự nhiên 173,75km2, trong đó phần lớn rừng. Người dân đau xót kể lại rằng nơi đây ngày xưa chim muông khắp nơi, cổ thụ thì lớn đến mức 4-5 người chia nhau ôm mới hết vòng… nhưng Lâm trường Bố Trạch hủy diệt tất cả. Đến năm 2013 thì đợt lũ dầu tiên quét sạch mọi thứ do rừng không còn đã diễn ra. Thiên nhiên chết dần, mà con người đứng ra bảo vệ rừng cũng bị tấn công, bắt bớ. Tháng 12/ 2014, đã từng có những cuộc xung đột lớn giữa dân chúng và phía Lâm trường Bố Trạch, nhưng tiếng kêu của dân chúng không thấu được đến đâu cả. Hôm nay lụt tràn về Hà Tĩnh, mà nguyên nhân chính là nhà máy thủy điện xả lũ vô trách nhiệm. Giải trình của chính Chi cục Thủy lợi tỉnh Hà Tĩnh cho biết, bởi mưa lớn cộng với nhà máy thủy điện Hố Hô xả lũ với lưu lượng từ 500 m3/s – 1.800 m3/s, hồ Bộc Nguyên xả 150-200m3/s… đã làm cho địa phương bị ngập lụt. Chuyện nhà máy thủy điện xả lũ vô trách nhiệm, coi thường tài sản và mạng sống con người không còn là chuyện lạ. Ở Việt Nam, nơi đâu có nhà máy thủy điện là nơi đó có sự cố xả lũ. Lời trách yêu của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Đặng Quốc Khánh với nhà máy thủy điện Hố Hô rằng “Xả lũ hết cỡ như thế dân không kịp trở tay”, cũng vô trách nhiệm không kém. Sống và chết của hàng ngàn con người ở Hà Tĩnh như vậy đó, chỉ được giải đáp bằng những lời vuốt ve nhau lấy lệ. Nỗi đau thì con người vốn đành cam chịu đã lâu. Có thể chôn kín trong lòng đến tận mộ sâu. May ra chỉ còn đôi mắt mờ đục và tuyệt vọng của con bò hôm nay, là để minh chứng cho cây độc đã đơm hoa kết trái, mà kẻ gieo xuống, không phải là dân lành. Đôi mắt của con bò cố sống sót ở Quảng Bình hôm nay, sẽ đi vào lịch sử. Nó là bức tranh hiện thực đau nghiến, nhưng căng phồng những nỗi niềm mà người dân cũng đang loay hoay và cố sống sót như chính con bò của mình. Gần một thế kỷ sau, hình ảnh đôi mắt của một con người không tương lai của Nguyễn Công Hoan lại ám ảnh người xem, nhưng lần này còn thấp hơn nữa, qua số phận một con vật. Con bò vô danh ấy thật may mắn. Vì nó có được người chủ tử tế và nghĩ đến nó. Còn hàng triệu con người Việt Nam khác đang đối diện với môi trường đang vào thảm họa, ai sẽ cứu họ trong một ngày mai đầy thảng thốt? Và tương tự những người dân sống sót qua thảm họa, lại bị tước đoạt cả phần cứu trợ của mình, sự chịu đựng của một dân tộc ngày càng sâu hoắm và khủng khiếp ấy, khi nào mới chạm đáy và người người tỉnh giấc? Tuấn Khanh (blog RFA) Đăng bởi Tiểu Nhi on Thursday, October 27, 2016 | 27.10.16
  14. Mai Tú Ân Hôm nay là ngày thứ 15 blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trong lao tù - 15 ngày không được gặp gia đình và Luật sư. Ảnh Danlambao. Rất nhiều các bạn đã gửi cho tôi mẫu để ký tên đòi tự do cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - Mẹ Nấm. Có rất nhiều Tổ Chức XHDS nổi tiếng, cũng như có rất nhiều trí thức uy tín đã ký vào lá đơn đó. Thật cảm động và trân trọng biết bao những con người có tấm lòng vàng như thế. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh thật hạnh phúc khi có biết bao bàn tay thân thương đã chìa ra cho em trong những lúc khó khăn này. Nhưng tôi đã không ký tên mình vào lá đơn đó, bởi có hay không có tên mình thì cũng không ảnh hưởng gì đến phong trào chung. Nhưng điều quan trọng hơn là ký tên vào rồi lá đơn đó sẽ đi về đâu ? Có ai đứng ra giải quyết không ? Tôi có thể trả lời ngay là lá đơn sẽ đi về hư không, và dĩ nhiên sẽ chẳng có ai có trách nhiệm đứng ra giải quyết cả. Không có một ai, thậm chí không có đến một người nào đứng ra nhận cho phải phép lá đơn của tình người, của lòng nhân ái và sự đồng cảm của bao nhiêu con người tên tuổi, bao nhiêu trí thức nổi danh trên đất nước Việt Nam này. Vì không muốn có sự bất công giáng xuống đầu một phụ nữ can đảm đã nói lên tiếng nói của lương tri và phẩm giá mà những bậc trí thức đó đã ký vào lá đơn đòi tự do cho chị. Vì họ đã nhìn thấy sự tàn bạo, và khả ố của nhà cầm quyền khi đem ngục tù vô lý để áp chế người phụ nữ ấy, cắt lìa sợi dây tình cảm của chị với mẹ già và con dại.... Nhưng như tiếng kêu thảng thốt nơi sa mạc mênh mông, hay tiếng nấc uất nghẹn giữa đêm trường những lời kêu gọi trả tự do cho Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh của mọi người đều đã bay vào nơi vô cảm, vô tình. Những kẻ bắt giam tàn nhẫn người phụ nữ ấy không thèm nhận lá đơn, thậm chí không thèm trả lời là có nhận đơn hay không theo luật định. Mẹ Nấm, người phụ nữ can đảm đó cũng sẽ phải chịu tù tội như những con người đấu tranh can đảm khác. Đó là khúc ca bi tráng và cũng là số phận buồn tủi của những người đàn ông, đàn bà phản kháng trên đất nước buồn thảm này. Chúng ta đã làm đơn kiến nghị cho bao điều tốt đẹp, đòi tự do cho bao con người đấu tranh dân chủ như Trần Huỳnh Duy Thức, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Bùi Hằng, Nguyễn Văn Đài... nhưng Than ôi. Có ai bước ra khỏi ngục tối bất nhẫn kia đâu. Bao nhiêu tổ chức Quốc Tế, Hội Nhân Quyền... cũng đã mạnh mẽ lên tiếng nhưng cũng như ném sỏi ao bèo. Chính quyền đã giả điếc như mọi khi. Nên tôi đã không ký vào đơn đòi trả tự do cho Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh mặc dù tôi cũng như tất cả mọi người đều muốn Mẹ Nấm được tự do. Và thậm chí tôi mong có phép lạ, để cho mình cũng được sẵn sàng làm giống như một vài người đã lên tiếng, muốn đi tù thay cho Mẹ Nấm, để người phụ nữ ấy trở về với vòng tay con thơ của mình. Những kẻ bắt bớ tàn bạo đâu có run rẩy khi tống những người phụ nữ tay yếu chân mềm như Bùi Hằng, Cấn Thị Thêu, Mẹ Nấm vào ngục, nhưng chúng tôi thì có đấy. Những người đàn ông chúng tôi đáng ra phải ở nơi mà những người phụ nữ can đảm trên đang ở. Một lần nữa xin phép được bày tỏ lòng ngưỡng mộ những tấm lòng của mọi người đối với Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một người phụ nữ mà tôi không quen, không biết nhưng vô cùng kính phục. Tôi sẽ tìm việc gì có ích hơn để có thể chia sẻ nỗi khó khăn với người phụ nữ can đảm đó nhưng tôi sẽ vẫn cầu nguyện Ơn Trên phù hộ cho lá đơn của mọi người đòi tự do cho Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được thành công. * Bài viết trên mục Diễn đàn thể hiện quan điểm riêng của tác giả (ijavn.org)
  15. Tôi ủng hộ những tác giả vạch trần mọi hành vi tham nhũng, tàn ác, ma giáo của bất cứ ai, quan chức nào đã, đang bán giang sơn, chủ quyền dân tộc cho ngoại bang, vơ vét cạn kiệt tài nguyên đất nước, đầu độc môi trường, cướp đoạt đất đai, mồ hôi, nước mắt… gây đau khổ cho nhân dân dù họ ở phe nào. Đinh La Thăng, Nguyễn Tấn Dũng, Huy Đức Thời kỳ làm báo quốc doanh thấy tôi hết gặp họa này lại đến họa khác nhiều bạn bè khuyên: “Anh chống tham nhũng làm gì, để cho đảng CS tha hồ vơ vét nó càng thối nát chóng chết”. Tôi tin đó là lời chân thành. Bởi vì, chỉ thời gian ngắn đảng CS đã tha hóa, thối nát đến bệ rạc chưa từng thấy. Thế nhưng, tôi vẫn không thể làm ngơ vì nghĩ nếu cứ để cho bọn quan tham lộng hành vơ vét làm cho đất nước băng hoại mọi giá trị mà dân không được biết sự thối nát của họ thì chẳng khác thấy kẻ giết người nhưng không hô hoán, can gián cứ cho nạn nhân chết còn hung thủ vẫn chẳng ai hay. Thế nên tôi vẫn “chứng nào tật ấy”. Thời gian qua một số tác giả đã viết bài công khai những sai phạm của nhiều yếu nhân trong đảng CS như Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh,Vũ Đức Thuận... tạo nên dư luận trái chiều, người thì hoan nghênh, người lại “ném đá” cho là các tác giả này “thuộc phe Nguyễn Phú Trọng” và tại sao không đăng về sai phạm của ông Trọng mà chỉ đăng người nọ, người kia… Riêng tôi ủng hộ những tác giả vạch trần mọi hành vi tham nhũng, tàn ác, ma giáo của bất cứ ai, quan chức nào đã, đang bán giang sơn, chủ quyền dân tộc cho ngoại bang, vơ vét cạn kiệt tài nguyên đất nước, đầu độc môi trường, cướp đoạt đất đai, mồ hôi, nước mắt… gây đau khổ cho nhân dân dù họ ở phe nào. Ở chế độ độc tài thời mạng Internet chưa phát triển, đảng CS độc quyền thông tin thì việc vạch mặt những kẻ đang nắm quyền lực là không thể. Bởi vì, pháp luật ở chế độ độc tài thuộc những kẻ mạnh, khi họ còn nắm quyền lực thì về danh chính họ không có sai phạm, tội lỗi, thậm chí còn là “ tấm gương đạo đức…” vì báo quốc doanh chỉ có quyền tung hô, “nâng bi” lãnh đạo. Vì thế kẻ nắm quyền lực dù đầy tội lỗi thì vẫn cao sang chỉ đến khi họ rời quyền lực, chui ống cống… thì tội của họ mới được công khai và nhân dân hoặc kẻ khác nắm quyền mới có cơ xử được họ. Nay có Internet,mạng xã hội một bộ phận người dân mới được biết đến chút “thâm cung bí sử” của triều đình CS và mọi công khai để nhân dân biết tạo dư luận ngăn chặn, “đóng đinh” tội lỗi của họ là việc cần thiết. Lịch sử chứng minh không kẻ nào gây tội ác với đất nước, nhân dân được thoát. Vì thế nếu nay bất cứ ai công khai, trừng phạt tham nhũng thì vẫn tốt dù bất cứ ở phe nào, động cơ gì. Chống tham nhũng đem lại chút lợi cho đảng CS sống lâu hơn nhưng để nạn cướp đoạt giảm tốc, đất nước đỡ tan hoang, dân ta đỡ khổ và đặc biệt nói lên sự vô lý, tha hóa không thể tránh khỏi của chế độ độc tài thì vẫn không phải vô ích. Thử hỏi, nếu họ chia chác sòng phẳng, đoàn kết nhất trí “quang vinh muôn năm” mà không ai biết rồi tăng tốc bàn giao VN cho ngoại bang để làm “An Nam khu tự trị” ung dung làm giàu trên lưng 90 triệu cái “đầu đen” thấm nhuần văn hóa “khôn ngoan không dám làm người”(Lê Đạt), không thèm biết nhục, không cần nghĩ đến tổ tiên nữa thì sẽ ra sao? Tuy nhiên, công khai, vạch mặt tham nhũng không đồng nghĩa trừng phạt vì trừng phạt hay không là quyền của đảng cộng sản, ông Nguyễn Phú Trọng nắm bộ máy quyền lực. Chỉ thị 15 còn nguyên giá trị, nếu báo của đảng CS công khai tham nhũng của ai đó thì chỉ thị 15 còn phải xem xét, cân nhắc có nên “chống” anh này, anh kia không đã chứ nói gì ai công khai tham nhũng trên mạng “không chính thống” thì hầu như đảng CS không bận tâm. Việc sau khi có các bài báo công khai tham nhũng nhiều ý kiến chưa chi đã “thòng lọng thít cổ anh nọ, anh kia” là hơi chủ quan. Tôi cũng không đồng tình luận điểm: Các bài báo chứa trong nó tài liệu thuộc loại “thâm cung bí sử” là phải từ một trong hai phe “chóp bu” trao gửi cho tác giả như trường hợp Huy Đức viết về ông Đinh La Thăng vừa rồi. Trường hợp ấy là có nhưng không phải tất cả. Bởi vì,một nhà báo có tư liệu từ các nguồn: tự mình sưu tầm,bạn đọc cung cấp, “kẻ thù” của đối tượng tuồn cho để mượn tay trừ khử đối thủ... Qua nhiều năm làm báo và chiến với cường quyền tôi nhận thấy các tài liệu chống tham nhũng, tiêu cực hầu hết từ quần chúng căm ghét tham nhũng, tin tưởng nhà báo cung cấp. Những năm tôi đấu tranh với lãnh đạo HKVN đang đêm ai đó còn quẳng vào sân nhà tôi cả những hợp đồng,giá cả, các trao đổi ăn chia tối mật của quan chức HKVN,thành viên cơ quan nhà nước cấp cao… về những vụ mua, thuê máy bay mờ ám... Đặc biệt, các phe phái chính trị đấu đá họ vô cùng thận trọng, đa nghi không dễ để các nhà báo “nhúng mũi” vào nội bộ của họ. Nói các thông tin thuộc VIP trong đảng CS mà nhà báo có được chỉ từ phe nọ, kia cung cấp là hạ thấp vai trò của nhân dân và nhà báo. Đảng CS nay chỉ còn nhất nguyên quyền lực họ muốn trị ai cũng được vì có mấy quan chức không có tội và ai đủ thế lực làm họ phải nhờ các thông tin “không chính thống” vận động dư luận ủng hộ? Họ nhường TQ bao nhiêu lãnh thổ, xâm lấn biển đông, tàn sát cướp bóc ngư dân VN, bênh kẻ đầu độc biển bốn tỉnh miền trung, rước cả tàu của kẻ cướp quần đảo Hoàng Sa, tàn sát bộ đội ta cướp đảo Gạc Ma vào Cam Ranh…. toàn tội “trời tru, đất diệt” họ cũng chẳng e dư luận cơ mà.. Theo tôi, tham nhũng, thối nát chỉ có ở đảng CS, bất kỳ ai công khai, chống các hành vi đó đều tốt dù họ ở phe nào, đảng CS có xử lý hay không. Nguyễn Đình Ấm (VNTB) Đăng bởi Ha Tran on Wednesday, October 26, 2016 | 26.10.16
  16. Tổng Bí thư đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng lại tiếp tục gây sửng sốt với những phát ngôn rất “thật thà” của ông. Mới đây, ngày 17/10/2016, ông Trọng đã tuyên bố “chống ngoại xâm đã khó, chống nội xâm còn khó hơn vì là ta đánh vào ta. Ai dám nhận kỷ luật, chỉ kiểm điểm nghiêm túc rồi thôi”. Những bộ mặt tham nhũng nổi cộm? Giặc nội xâm là ai? Ở đây, ông Trọng cho rằng tham nhũng là “giặc nội xâm”, nhưng chống tham nhũng là “ta đánh vào ta”, nghĩa là ông đã thừa nhận chỉ có đảng viên cộng sản các cấp mới có thể tham nhũng, và các đảng viên cộng sản không thể nào tự “đánh” chính mình. Điều này cũng có nghĩa đảng Cộng sản chính là “giặc nội xâm” của dân tộc Việt Nam. Các đảng viên cộng sản đang ngày đêm vơ vét các nguồn lực của đất nước vào túi riêng của mình. Trước đây, vào ngày 4/3/2016, ông Phạm Trọng Đạt, Cục trưởng Cục Chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ, cũng “thật thà” không kém khi chia sẻ “Tham nhũng là những người có chức vụ quyền hạn… Chúng tôi chống lại có khi chết trước”. Khi xác định đảng Cộng sản là “giặc nội xâm”, ông Trọng đã có bước tiến về nhận thức khi ông thấy được đảng Cộng sản đang là khối ung thư bào mòn sức sống của dân tộc, chứ không phải chỉ là bệnh ngoài da như “ghẻ ruồi, rất ngứa ngáy, khó chịu” (ngày 18/7). Tôi tin rằng bất kì người đảng viên cộng sản có lương tri nào cũng cảm thấy xấu hổ khi là đảng viên của một đảng “giặc nội xâm”. Tiếp tục tình trạng tham nhũng như hiện nay thì đảng Cộng sản đang tự biến mình thành “thế lực thù địch” của dân tộc. Niềm tin đã mất Dân chỉ cần trộm vặt vài chục ngàn là cũng có thể bị truy tố hình sự, thậm chí có người bị đánh chết trong đồn công an. Nhưng đảng viên cộng sản tham nhũng hàng ngàn tỉ, nghĩa là trộm cắp tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân, thì chỉ “nhận kỷ luật, chỉ kiểm điểm nghiêm túc rồi thôi” như lời ông Trọng. Có đảng viên cộng sản tham nhũng xong còn ung dung trốn ra nước ngoài như trường hợp của Trịnh Xuân Thanh. Thế mới thấy bất công xã hội ghê gớm như thế nào ở đất nước này! Sự thật là những phát ngôn và hành vi của các quan chức, trong đó có ông Trọng, mới khiến dân mất niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Những người bất đồng chính kiến đang bị giam giữ vì những điều như 79, 88, 258 trong bộ luật Hình sự không thể nào gây mất niềm tin trong dân bằng phát ngôn của các ông. Phát ngôn của ông Trọng gây phương hại cho sự cầm quyền của đảng Cộng sản như vậy nhưng các lực lượng an ninh có dám bắt giữ ông hay không? Câu giờ Ông Trọng cũng hứa hẹn và năn nỉ người dân: “Ta phải kiên quyết, kiên trì, làm đi làm lại [việc chống tham nhũng] như đánh răng rửa mặt hàng ngày, bình tĩnh và thông cảm với cái chung”. Như thế, ông Trọng không hề đưa ra được bất kì một giải pháp nào để giải quyết vấn đề tham nhũng tràn lan, ngoại trừ những lời kêu gọi sáo rỗng từ bao năm nay. Răng đã bị sâu thì đánh răng làm sao phục hồi được? Mặt đã dính thẹo thì rửa mặt làm sao ra? Sự thực là ông Trọng nói riêng và đảng Cộng sản nói chung đang câu giờ trước sự phẫn nộ của người dân. Ngày 25/8/2016, Giáo sư Kenichi Ohno thuộc Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Nhật Bản, người đã có 20 năm kinh nghiệm theo dõi quá trình làm chính sách ở Việt Nam, đã nhận xét rằng làm chính sách ở Việt Nam “thường chỉ dừng lại ở việc soạn văn kiện”, “thiếu kế hoạch hành động và cơ chế giám sát”. Nghĩa là đảng Cộng sản chỉ nói chứ không làm được gì. Chính trị là hành động có giải pháp. Chính trị gia phải là người thấy được vấn đề và nêu ra được cách giải quyết để dân bầu cho mình. Đất nước đang rất cần những chính trị gia chân chính, chính trực để giải quyết vấn đề Việt Nam. Các lãnh đạo đảng Cộng sản không đưa ra được giải pháp cho quốc gia thì cũng có nghĩa họ không phải là những chính trị gia chính trực mà chỉ là những kẻ cai trị, đảng Cộng sản cầm quyền chỉ là một đảng cai trị. Và đảng cai trị này đang đàn áp, sách nhiễu, bắt bớ những công dân đưa ra giải pháp được cả thế giới áp dụng là xây dựng một nhà nước dân chủ pháp quyền. Sai quy trình Mọi tệ hại của đất nước như xả lũ gây chết dân, chiếm đoạt đất đai của dân, bổ nhiệm cán bộ bất tài nhưng là “con ông cháu cha”, xả thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng… đều “đúng quy trình”. Nhưng cái quy trình lớn nhất thì các lãnh đạo đảng Cộng sản lại làm sai hoàn toàn. Từ cái sai lớn nhất đó dẫn đến tất cả những cái “đúng quy trình” sau đó đều sai. Quy trình lớn nhất bị làm sai chính là thủ tục ban hành hiến pháp không do toàn dân phúc quyết, mà do một Quốc hội được lãnh đạo đảng Cộng sản “cơ cấu, quy hoạch” tự ban hành và tự thông qua. Quyền lực của nhân dân đã bị tước đoạt ngay từ đầu. Ngày 18/10/2016, ông Trọng cũng nói “Người đứng đầu mà tự tung tự tác, quyết định tất, quyết dự án, quyết cán bộ..., cứ thế là hỏng chế độ, quan trọng nhất là mất lòng tin”. Suy rộng ra, câu nói đó còn có ý nghĩa đảng cầm quyền mà tự tung tự tác thì sẽ hỏng cả một quốc gia. Và sự thật là Việt Nam đã bị những nước nhỏ hơn như Lào, Campuchia, Myanmar, thậm chí cả những nước châu Phi vượt qua ở nhiều lĩnh vực. Nhập cuộc cho Việt Nam đoàn kết Không thể chấp nhận tiếp tục tình trạng một đảng là “giặc nội xâm” độc quyền nhà nước, đứng trên pháp luật tiếp tục “câu giờ” như vậy. Người dân Việt Nam, bao gồm cả những đảng viên cộng sản có lương tri, cần đoàn kết lại với nhau để cùng nhau xây dựng một Việt Nam đoàn kết trên nền tảng pháp luật chuẩn mực, bắt đầu từ bản hiến pháp của toàn dân. Đó là mệnh lệnh của Tổ quốc, là đòi hỏi cấp bách của thời đại. Trong hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại xâm là Trung Cộng lấn chiếm trên biển Đông, người Việt cần đoàn kết giải quyết dứt điểm “giặc nội xâm” thì sau đó mới có đủ sức mạnh để bảo vệ lãnh thổ do cha ông để lại. Đơn giản là vì một dân tộc đoàn kết thì không một thế lực nào dám xâm phạm. Nguyễn Tiến Trung * Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ. (VOA) Đăng bởi Tiểu Nhi on Tuesday, October 25, 2016 | 25.10.16
  17. Xã hội Việt Nam hiện nay là sự trộn lẫn các phần của CNXH, phong kiến, tư bản, phát xít, mà thảm thương thay lại chủ yếu là trộn lẫn những phần xấu xa nhất, tệ hại nhất của từng chế độ để tạo nên một đại bi kịch cho xã hội. Đại bi kịch Việt Nam “Đất nước mình ngộ quá phải không anh. Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn” (Trần Thị Lam). Vâng, ngộ quá. Đúng là một đất nước không chịu phát triển, hoặc đúng hơn là không thể phát triển được vì mắc kẹt vào các nghịch lý, các mâu thuẫn nội tại chưa có cách gì gỡ ra được, đang loay hoay trong đại bi kịch. 1. Chế độ mang danh XHCN mà thực chất không phải XHCN Chế độ XHCN chỉ mới manh nha ở Liên Xô và Đông Âu một thời gian đã vội tan rã. Theo tưởng tượng của Mác thì XHCN và sau đó CSCN chủ yếu là thể chế kinh tế “làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu”, không có bóc lột, không có áp bức. Nền kinh tế đó phải dựa trên công hữu tư liệu sản xuất. Vấn đề lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyên chính vô sản chỉ là biện pháp để thực hiện nền kinh tế đó. Trong chế độ XHCN công nhân và nông dân làm chủ nhà máy, ruộng đồng, mọi người sống tự do, hạnh phúc, giáo dục và y tế miễn phí v.v… Nếu hiểu CNXH là như thế thì ở Việt Nam, ngoài việc chuyên chính do Đảng CS thao túng, không có gì đáng kể là XHCN. Không cần dẫn chứng, không phải chứng minh, cứ nhìn vào cuộc sống thực tế là thấy hết. Phải chăng ở Việt Nam người ta chỉ đưa ra nhãn mác XHCN để tuyên truyền, còn thực chất là chế độ gì chưa biết chứ chắc chắn không phải là CNXH. 2. Nhà nước Cộng hòa nhưng hành xử theo lối phong kiến Chế độ phong kiến ở Việt Nam có nhiều thời kỳ thịnh trị, có vua sáng tôi hiền, dân được sống ấm no hạnh phúc, nhưng cũng nhiều lúc thối nát, gặp phải vua đểu và hèn, quan tham và ngu. Những lúc như thế dân phải chịu trăm đường khổ nhục. Bản chất của phong kiến là quyền bính tập trung vào vua quan, người dân chỉ là “thảo dân” chẳng có quyền gì, phải lo làm để nuôi bọn thống trị. Tội nặng nhất là khi quân (nói hoặc làm khác ý vua), nghĩa là không được tự do tư tưởng, không có tự do ngôn luận. Vua đứng trên luật pháp, cho sống được sống, bắt chết phải chết, nghĩa là không cần tôn trọng nhân quyền. ĐCS đã làm cách mạng đánh đổ phong kiến, nêu danh là nước Cộng hòa XHCN, xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, không ngờ lại tái lập phong kiến dưới hình thức khác, không có một ông vua rõ ràng mà vua tập thể, vua ở trung ương, vua tại các địa phương. Không phải tái lập được nền phong kiến thịnh trị mà là phong kiến thối nát. Theo mô tả của Milovan Djilas thì CS đã lập nên một “Giai cấp mới “để thống trị xã hội còn tàn bạo, thâm hiểm hơn bọn phong kiến. Đúng như bài thơ của Trung tướng Trần Độ: Những mong xóa ác ở trên đời / Ta phó thân ta với đất trời / Tưởng ác xóa rồi thay cực thiện / Ai hay cái ác cứ luân hồi. Cái ác mà Trần Độ nói đến là cái ác do bọn thống trị gây ra, bắt dân phải chịu. 3. Là tư bản man rợ nhưng được ngụy trang bằng định hướng XHCN Chế độ kinh tế tư bản đã bắt đầu bằng những thủ đoạn man rợ, hoang dã như làm giàu trên sự bần cùng hóa công nông, hủy hoại tài nguyên và môi trường. Đó là thời kỳ vào thế kỷ 18, được Mác khảo sát để viết nên Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và Tư bản luận, đồng thời tưởng tượng ra học thuyết CNCS. Tiếp theo chế độ tư bản có các thời kỳ phát triển và đến bây giờ đã có những nước được ví là thiên đường nơi hạ giới, như các nước Bắc Âu. ĐCS Việt Nam một thời gian dài đã rất nhầm lẫn khi đồng nhất tư bản với đế quốc xâm lược và quyết tâm làm tên lính xung kích đào mồ chôn chúng nó. Từ năm 1986 Việt Nam cởi trói nền kinh tế, để cho tư nhân phát triển, gọi là đổi mới, nhưng thực ra chỉ là sửa sai để đi theo con đường kinh tế thị trường của tư bản, mà còn đèo thêm định hướng XHCN. Nhiều người thắc mắc ý nghĩa của khái niệm định hướng XHCN, nó có nội hàm và ngoại diên như thế nào. Theo tôi, ý muốn của người đưa ra định hướng XHCN là phải đặt cả nền kinh tế thị trường ấy nằm gọn dưới sự lãnh đạo của ĐCS. Thế thì dưới sự lãnh đạo ấy nền kinh tế Việt Nam phát triển như thế nào. Rõ ràng là nó đang theo sát những thủ đoạn man rợ, hoang dã thời kỳ đầu của kinh tế tư bản, mà còn tệ hại hơn nhiều. Đó là sự cấu kết của bọn người có quyền với bọn tài phiệt trong và ngoài nước nhằm đục khoét, chiếm đoạt tài sản quốc gia, cướp ruộng đất và bóc lột nhân dân, vay nợ nước ngoài để đút túi một phần và để lại cho dân phải trả. Không những cấu kết với bọn tài phiệt mà còn bảo vệ chúng, tôn thờ chúng trong việc phá hoại đất nước (trong nền kinh tế thị trường thực sự hầu như rất hiếm có sự cấu kết này). Thế rồi lãnh đạo chính phủ đi cầu xin hết nước này đến nước khác để họ công nhận cho có nền kinh tế thị trường, nghĩa là đã theo được tư bản. Lúc cầu xin như thế thì cố tình cắt cái đuôi định hướng. 4. Rập khuôn theo phát xít nhưng lại hô hào dân chủ Sự xâm lược của Phát xít Đức vào Liên xô và sự thắng lợi của Hồng quân trong đại chiến 2 làm nhiều người nhầm, cho rằng CS và phát xít là đối nghịch nhau. Thực ra không phải như vậy. Jeliu Jeliev, một trí thức Bungari, năm 1967 đã viết quyển sách Chế độ phát xít (năm 1990 Jeliu Jeliev được bầu làm Tổng thống của Bun). Đọc xong quyển Chế độ phát xít (Hitler-Đức và Mutxôlini-Ý) mới thấy tổ chức xã hội và sự thống trị của ĐCS Việt Nam gần như sao chép từ chế độ đó. Về nhà nước, đó là việc đặt Đảng bao trùm lên toàn bộ chính quyền và xã hội, tạo ra một chính quyền nữa cao hơn, là việc bầu cử hài hước để tạo ra Quốc hội bù nhìn, là tổ chức công an, mật vụ để do thám tổng thể và đàn áp, là các tòa án bị Đảng thao túng, viện kiểm sát phải phục tùng cảnh sát, là việc dùng thủ đoạn dối trá và bạo lực trong cai trị, là việc bóp nghẹt tự do dân chủ, lập các trại cải huấn v.v… Về nhân dân, đó là cách khống chế mọi tầng lớp xã hội trong các đoàn thể quần chúng, biến nhân dân thành quần thể không tính cách, mọi thứ phải phục tùng đảng, là mâu thuẩn giữa đảng và tầng lớp trí thức chân chính, là sự tan rã của tầng lớp tinh hoa, là sùng bái cá nhân lãnh tụ v.v… Xét về mặt thống trị thì CS và phát xít giống như hai anh em sinh đôi, được bú từ một nguồn sữa. Thế nhưng cứ nghe những lời tuyên truyền thì chế độ CSVN “dân chủ đến thế là cùng”, là dân chủ gấp hàng ngàn, hàng vạn lần các nước tư bản. Không biết họ nói thế và có tin vào điều đó không vì không thấy họ ngượng mồm một chút nào cả. Cũng không biết họ định đánh lừa ai. Hay là họ đã quen cho rằng dân chúng chỉ là một lũ người bảo sao nghe vậy. Mà khổ thay, vẫn có người tin và phụ họa lời họ nói. CSVN và phát xít giống nhau nhiều điểm về thống trị, về đàn áp, nhưng có vài điểm CS không học được phát xít, đó là sự minh bạch và vững mạnh của chính quyền, là sự phát triển kinh tế hùng hậu. Cũng chưa nghe nói đến đảng phát xít phải ra nghị quyết làm trong sạch và chỉnh đốn. 5. Đại bi kịch Tóm lại xã hội Việt Nam hiện nay là sự trộn lẫn các phần của CNXH, phong kiến, tư bản, phát xít, mà thảm thương thay lại chủ yếu là trộn lẫn những phần xấu xa nhất, tệ hại nhất của từng chế độ để tạo nên một đại bi kịch cho xã hội (về hiện tượng, nhiều người thấy rõ, xin không kể ra dài dòng). Sẽ có người hỏi, nói như vậy có bôi đen quá mức không? Sao không nhìn vào những sân bay, những con đường, những chiếc cầu, những tòa nhà cao tầng được xây dựng ở khắp nới, sao không nhìn vào xuất khẩu tôm cá, lúa gạo, hoa quả, dầu thô, quần áo, giày dép, sao không nhìn vào vị thế ngoại giao với nhiều nước và Liên Hiệp Quốc, sao không biết sự tăng trưởng GDP mỗi năm đều trên 6%, sao không so sánh đời sống của dân chúng bây giờ với trước 1945 và thời kỳ 1980 v.v… Xin thưa, có nhìn thấy chứ. Nếu không có những thứ đó thì Đảng tiêu vong rồi, dân tộc lụn bại lâu rồi chứ đâu còn như bây giờ để thảo luận. Có so sánh chứ. So sánh theo phương dọc, nghĩa là so sánh ta với ta qua thời gian, và so sánh theo phương ngang, là so sánh ta với người khác trong cùng thời gian và hoàn cảnh. Khi so sánh theo phương ngang mới thấy chúng ta thua kém người ta quá chừng. Có lý thuyết cho rằng kinh tế của xã hội phát triển hơn kém nhau ở năng suất lao động, và năng suất đó của Việt Nam đứng vào hạng thấp của khu vực và thế giới. Người ta kêu gọi tăng năng suất nhưng không biết tăng bằng cách nào. Tuy vậy năng suất lao động cũng chỉ là một chỉ tiêu của kinh tế. Quan trọng hơn là chỉ tiêu hiệu quả. Có thể hiểu sơ lược: Hiệu quả P =[(T – C) / C] 100%. Trong đó T là phần thu được, C là phần chi phí bỏ ra. Trong phần lớn báo cáo của mọi cấp mọi ngành người ta chủ yếu nêu ra T mà ít quan tâm đến C và P. Nếu tính được P cho nền kinh tế Việt Nam trong mấy chục năm qua thì thấy đó là một số âm có trị tuyệt đối khá lớn. Hiệu quả âm có nghĩa là kết quả càng lớn, làm càng nhiều thì thua lỗ càng nặng.Thể hiện rõ nhất của việc này là vay nợ nước ngoài càng ngày càng tăng và trước mắt chưa có cách gì trả được. Hàng năm phải vay thêm chỉ để trả phần tiền lãi. Kinh doanh, khởi nghiệp, các dự án phần lớn không lành mạnh. Đa số doanh nhân làm giàu không phải bằng trí tuệ, sáng tạo mà bằng quan hệ đen tối, bất chính với thế lực có quyền (chia chác, hối lộ). Những doanh nghiệp làm ăn chân chính, không chịu chấp nhận liên minh ma quỷ với thế lực có quyền thường bị đe dọa, bị phá phách, bị triệt hạ. Vụ bà Ba Sương với Nông trường Sông Hậu, vụ kiện ra Tòa án quốc tế của ông Trịnh Vĩnh Bình, quốc tịch Hà Lan, đòi Chính phủ Việt Nam bồi thường 1 tỷ USD là các dẫn chứng sinh động. Làm kinh tế như vậy chủ yếu là trò trộm cướp, lừa đảo chứ không phải phát triển đúng hướng. Mà phát triển xã hội đâu phải chỉ có kinh tế. Còn có thứ cần hơn là văn hóa, là đạo đức. Phát triển kinh tế với hiệu quả âm, lại phá nát tài nguyên và môi trường, hủy hoại văn hóa và đạo đức thì cái giá của nó là quá đắt. Trước năm 1986, vì phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng trong chính sách kinh tế theo định hướng XHCN mà đất nước lâm vào cảnh đói kém, kiệt quệ. Tình trạng đó làm rối trí và mờ mắt nhiều người nên từ năm 1986, để sửa sai người ta lại đổ xô vào phát triển kinh tế bất chấp mọi tai họa về môi trường và đạo đức mà nó mang lại. Để phát triển xã hội, ngoài kinh tế, văn hóa, đạo đức, còn cần đến tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, một cuộc sống yên bình, một xã hội tin yêu, thân thiện, chứ đâu có phải chỉ kinh tế. Mà về kinh tế, con số tăng trưởng GDP hàng năm cũng rất đáng ngờ. Tăng như thế mà sao năm nào ngân sách cũng thâm hụt, mà nợ nần vẫn chồng chất, hay là phần lớn ngân sách tăng được lọt vào túi cá nhân. Khi nhìn xã hội hiện tại nhiều người thấy rõ (vì không giấu đi đâu được) những tội ác như hủy hoại môi trường, nạn bạo hành, dân oan, hàng giả, hàng lậu, thực phẩm bẩn v.v.., những quốc nạn như tham nhũng, lãng phí, mua quan bán tước, giáo dục xuống cấp v.v…Đó chỉ là những thể hiện bề ngoài. Tôi cho rằng tội ác lớn nhất nằm ở bên trong, phần nào bị che giấu, mang sắc thái vô hình. Đó là sự phá nát truyền thống đạo lý và văn hóa của dân tộc, là để cho việc gian dối trở thành phương châm xử thế từ quan đến dân, là sự hủy hoại thành phần tinh hoa của dân tộc để phải chấp nhận những kẻ vừa thiếu trí tuệ vừa kém đạo đức giữ những cương vị lãnh đạo và quản lý đất nước. Công nhận rằng sự phá nát, sự hủy hoại này không phải là ý đồ tự giác của CS, họ không cố tình làm những việc đó, nhưng nó là kết quả tất yếu của dấu tranh giai cấp, của vô sản chuyên chính, của công hữu hóa tư liệu sản xuất, của nền độc tài đảng trị. Những kết quả tất yếu này ban đầu những người CS chưa nhận thấy, đến khi nó bộc lộ rõ ràng thì cố tình che giấu hoặc ngụy biện để bao che. Trong lúc nội chính còn bị rối như tơ vò thì thảm họa từ Trung cộng lại chụp xuống. Sự bành trướng với ý đồ “Bình thiên hạ” của Đại Hán đã hủy diệt dần dần các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Các dân tộc này đã có thời kỳ huy hoàng trong lịch sử, nhưng rồi vì chung ý thức hệ CS mà bị người Hán nô dịch. Đại Hán không ngừng âm mưu thôn tính và hủy diệt dân tộc Việt. Theo dự đoán của cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thì sau Hội nghị Thành Đô Việt Nam có thể mắc vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2. Thế mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước cam tâm thần phục Đại Hán. Đó cũng là một trong những đại bi kịch. Vạch ra như thế để rồi tìm con đường khắc phục. Việc đó như thế nào đã có nhiều người bàn tới. Riêng với tôi, trước đây cũng đã có vài lần bàn đến. Lần này bài viết đã khá dài, xin hẹn vào dịp khác. Nguyễn Đình Cống (Bauxite Việt Nam) Đăng bởi Tiểu Nhi on Monday, October 24, 2016 | 24.10.16
  18. Ngày 9/10/2016, tại Hà Nội, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng CSVN đã khai mạc hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương đảng khóa XII bằng một diễn từ nhấn mạnh vào đề tài chỉnh đảng. Ông Trọng phát biểu: “Tăng cường, chỉnh đốn đảng, ngăn ngừa, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, , đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; và một số vấn đề quan trọng khác”. Nhận định về mức độ trầm trọng của căn bệnh “tự diễn biến”, ông Trọng nhìn nhận: “Tình trang suy thoái , “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn chưa được ngăn chặn. đẩy lùi, có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường”. Như vậy, theo Nguyễn Phú Trọng, “tự diễn biến” có nghĩa là: Không do bất cứ xúi dục nào từ bên ngoài, người Cộng Sản đã tự họ từ giả chủ nghĩa Marx Lenine bằng cách “suy thoái về tư tưởng chính trị , đạo đức, lối sống”. Nói cụ thể hơn, ngày nay, CSVN đã: (1) Triệt để bôi bỏ cuộc đời sống bám vào chế độ tem phiếu để ồ ạt sản sinh ra xã hội tư bản rừng rú. Trong cảnh rừng rú hiểm ác kia, đảng CSVN vỡ vụn thành nhiều nhóm quyền lợi xâu xé lẫn nhau. Trong mỗi nhóm quyền lợi kia, “tình đồng chí” lặng lẽ nhưng gay gắt biến thành “tình đồng bọn”. (2) Trên địa bàn thống trị, tệ nạn tham nhũng vô tiền khoáng hậu được các “nhóm đồng bọn” cụ thể hóa thông qua chính sách cai trị xã hội theo bốn chuẩn mực: a) Nhất hậu duệ: cha con, họ hàng, đồng hương phân bổ cho nhau những vị trị thống trị xã hội. b) Nhì quan hệ: do “quan hệ” kiểu “có đi có lại” của giới giang hồ, những đồng bọn chia nhau ghế các loại lãnh đạo chính trị, kinh tế… c) Ba tiền tệ: mua quan bán tước là con đường công danh của những ai không là hậu duệ, không có “quan hệ” . d) Tư trí tuệ: Trong những xã hội lành mạnh, trình độ học vấn là chuẩn mực quan trọng hàng đầu giúp một người tiến thân trên đời sống. Dưới chế độ tư bản rừng rú trí tuệ chỉ là xa xỉ phẩm tinh thần. Thông qua bốn chuẩn mực xây dựng hệ thống quan chức kể trên, xã hội Việt Nam thực sự điêu tàn: biển chết, cá chết, sông chết, hồ chết, bầu trời chết, đồng chí giết đồng bọn, đồng bọn giết đồng bào, đồng bào giết lẫn nhau…Nguyễn Phú Trọng chống tự diễn biến bằng cách kéo đảng CSVN, kéo xã hội Việt Nam trở về với đời sống “ổn định” kiểu ngục tù của Cộng Sản cỗ xưa ư? Kinh nghiệm thăng trầm của xã hội đã dạy cho loài người bài học rằng: Tinh thần và vật chất tác động xoay chiều. Hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc chi phối lẫn nhau. Hạ tầng cơ sở là vật chất, là đời thực của dân gian, là xã hội tư bản rừng rú. Với hạ tầng cơ sở này thì thượng tầng kiến trúc nào được xem là tương ứng ? Thượng tầng kiến trúc là tinh thần, là tương quan thống trị – bị trị. Thượng tầng tương ứng với hạ tầng tư bản rừng rú chính là đảng-CSVN-tự-diễn- biến-theo-hướng-rối-loạn-hàng-ngũ. Chống tự diễn biến ư ? Nguyễn Phú Trọng và CSVN vận dụng qui luật nào của chủ nghĩa Marx để tái lập trật tự xã hội theo khuôn mẫu: hạ tầng cơ sở kinh tế tem phiếu “sống êm ả” với thượng tầng kiến trúc “CS răng đen mã tấu” ? Câu trả lời là sự im lặng tuyệt đối. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là một mộng thoại. Mộng du là đi lang thang trong cơn ngủ mịt mù. Mộng thoại là nói vu vơ giữa giấc ngủ trùng vây trong tăm tối. Không còn nghi ngờ gì nữa: chống tự diễn biến đúng với ước mong của Nguyễn Phú Trọng vĩnh viễn là một ảo vọng. Vậy thì, tự diễn biến là gi ? Tự diễn biến sẽ đi về đâu? Vươn mình lên khỏi mặt đất, cây cỏ đâm chồi, nẩy lộc. Ra khỏi lòng Mẹ, con người dấn thân vào vô số suy nghĩ, vô số hành động. Từ đó, con người trưởng thành… Sống đồng nghĩa với vận động. Vận động chính là sự phô diễn đời sống trong cõi dương gian. Tuy nhiên vận động không hề là, không thể là một đường thẳng trơn tuột, không biến cố, không trở ngại. Đứng trước mỗi bế tắc của dòng đời, con người cần phô diễn đời sống bằng cách đưa ra những ứng biến hợp lý. Đó là chân ý nghĩa của nhóm chữ “tự diễn biến”. Một người ăn trúng thực phẩm độc hại, lập tức người nhiễm độc phải nôn mửa để tống xuất chất độc ra khỏi cơ thể. Như vậy là người bị ngộ độc đã tự diễn biến về mặt sinh lý. Một người làm việc trong một xí nghiệp bị giới chủ bóc lột tàn tệ. Công nhân này kết hợp công nhân khác để cùng nhau đòi hỏi chủ nhân phải ngưng ngay hành động bóc lột. Như vậy là giới công nhân đã tự diễn biến về mặt tâm lý. Tự diễn biến và đời người gắn bó với nhau như hai lá phổi tìm tới khí trời. Sống đồng nghĩa với tự diễn biến. Ngôn ngữ Việt Nam diễn tả hoạt động tự diễn biến trong dòng sống bằng hai chữ NHÂN DÂN. Nhân là con người ổn định, con người tĩnh cả tâm lý lẫn sinh lý. Nhân là con người thường hằng toàn thiện toàn mỹ. Dân là con người sống trong thực tiễn xã hội, con người động trên mọi góc độ của đời sống. Dân khi thiện khi ác, khi tin yêu khi ngờ vực, khi chân thành khi dối trá, khi bao dung khi quá khích nghiệt ngã… Thế nhưng thật là kỳ lạ: Nhân với dân như hình với bóng. Trong cùng hung cực ác, dân vẫn thiết tha nghĩ tới nhân qua những khiển trách gay gắt của lương tâm, của nhân. Tiếng lương tâm là tiếng gọi tha thiết nhất, bền bỉ nhất, gọi rằng dân hãy tìm về nhân, nhân là nguồn hạnh phúc, nguồn ổn định đích thực của dân. Đây là lý do giải thích tại sao trong ngôn ngữ Việt Nam chữ nhân và chữ dân họp lại thành từ ngữ nhân dân. Quá trình sống của mỗi người là quá trình vượt thắng khó khăn để dân tìm về nhân, thể hiên nhân. Mỗi vượt thắng vừa kể chính là một tự diễn biến. Tự diễn biến là nghĩa vụ làm người cao nhất, lớn nhất. Con đường nào có thể giúp con người thực thi nghĩa vụ tự diễn biến ? Người cảnh sát có nghĩa vụ điều hành giao thông. Muốn hoàn tất nghĩa vụ này, người cảnh sát phải có quyền phạt những tài xế vi phạm luật lệ giao thông. Ở đâu có nghĩa vụ, ở đó phải có quyền. Nghĩa vụ và quyền như hai mặt không tách rời của một bàn tay. Nghĩa vụ làm người là nghĩa vụ tự diễn biến để dân tìm về nhân. Vì vậy con người hiển nhiên phải có quyền làm người. Đó là Nhân quyền. Nhân quyền khi đi vào xã hội của từng quốc gia đã biến thành dân quyền. Dân quyền được pháp lý hóa thông qua thể chế dân chủ đa nguyên. Nói ngắn và gọn: Nguyễn Phú Trọng không thể chống tự diễn biến bằng cách lôi kéo đảng viên trở về kết hợp với đảng theo đúng trật tự của thời kỳ CS sống dưới chế độ tem phiếu, chế độ bao cấp. Tình trạng tự diễn biến hiện nay tại Việt Nam chính là tình trạng dân tìm đường về với nhân. Đây là xu thế tất yếu của lịch sử loài người. Từ rất nhiều thập niên qua, duy vật sử quan đã bị ném vào hố rác của những tư tưởng bệnh hoạn. Sử quan ngày nay chính là sử quan dân chủ nhân quyền. Chẳng những không nên và không thể chống tự diễn biến. Hãy chấp nhận và hổ trợ tự diễn biến bằng những hành động tích cực xây dụng tại Việt Nam môt xã hội dân chủ nhân quyền chính danh. Đó là lòng dân và đó là mệnh lệnh của lịch sử./. Đỗ Thái Nhiên (Đàn Chim Việt Online) Đăng bởi Ha Tran on Sunday, October 23, 2016 | 23.10.16
  19. Mỹ còn lâu mới thay đổi lập trường không đứng về phía bên nào trong các tranh chấp biển đảo ở Biển Đông, Mỹ chỉ bảo vệ tự do lưu thông thôi. Vì Mỹ tránh xung đột với TC, vì quyền lợi Mỹ với TC lớn hơn quyền lợi của Mỹ đối với các nước ở Á châu Thái bình dương. Việc TT Duterte tách Phi ra xa Mỹ, không phải là cơ hội và động lực để CSVN xích lại gần, đồng minh với Mỹ để có lá chắn Mỹ ngăn chận đà TC xâm lấn biển đảo của VN. Ngày 17 tháng 10, 2016, Thượng Tướng Nguyễn Chí Vịnh, người đứng đầu phái đoàn VNCS trong cuộc đối thoại quốc phòng song phương với Hoa Kỳ lần thứ 7 tại Hà Nội, tuyên bố Việt Nam ủng hộ Mỹ “can dự” vào khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để phục vụ hòa bình và ổn định tại khu vực. Ông nói, “Việt Nam ủng hộ Hoa Kỳ cũng như các đối tác khác can dự vào khu vực nếu như sự can dự này đem lại hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho khu vực.” Ngày 19 tháng 10, 2016, TT Duterte của Phi, nước bị TC chiếm biển đảo ít hơn VN, nhưng kiện và thắng TC, nhơn chuyến công du Trung Quốc, Ô. Duterte tuyên bố tại Bắc Kinh, Phi “ly khai” khỏi Mỹ, một đồng minh quan trọng có quan hệ quốc phòng mật thiết, lâu đời với Philippines. Tinh hình cho thấy tân chánh phủ Phi Duterte đang xa rời Mỹ, xích lại gần Trung Quốc hiện CS và Nga hậu CS. Trong vấn đề Biển Đông, lâu nay TC đã chiếm cứ, xâm lấn, thôn tính 90% Biển Đông và gần hết hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa của VN. Lâu nay CSVN đi đu dây giữa Mỹ và TC. Với tình hình mới Phi đang dang xa Mỹ, liệu CSVN sáp lại gần Mỹ thế chỗ Phi trở thành đồng minh của Mỹ không. Nhiều sự kiện và thời sự thực tế cho thấy câu trả lời là không. Một, vì TC đã vô hiệu hoá vai trò và địa lý chiến lược của VN trong chiến lược khống chế Biển Đông của TC. Đối với Miên, CT Bình khai thác mâu thuẫn giữa VN và Miên trong vấn đề biên giới. CT Bình đích thân sang Miên mua chuộc Thủ tướng Hun Sen của Miên làm cây dao găm chĩa sát bên đít VN, và biến Miên thành «lá chắn» bảo vệ lập trường của TC chống lại mọi phê phán tranh giành biển đảo của các láng giềng. Đối với Phi, CT Bình cũng chiêu dụ bằng cuộc tiếp rước long trọng và mua chuộc Tổng Thống Philippines Rodrigo Duterte công du TQ từ 18 đến 21 tháng 10 với một phái đoàn doanh gia cả 250 người trong đó có những đại tài phiệt ở Philippines. Còn TT Duterte ve vãn tối đa TC, tự hào ông ngoại của Duterte là người Tầu và 1/4 dân số Phi là người gốc Hoa. Và chính Ông muốn xa rời Mỹ và xích lại gần TQ, kể cả trong vấn đề Biển Đông. TT Duterte tuyên bố Manila sẵn sàng tổ chức tập trận chung với Bắc Kinh, chứ không phải với nước đồng minh lâu năm là Mỹ. Tân hoa xã của TC loan truyền lời tuyên bố của Ô. Duterte "Chỉ có Trung Quốc mới có thể giúp chúng tôi". CT Bình ngay ngày đầu đã mua chuộc Duterte, hào phóng giúp cho Phi, đã cùng TT Duterte chứng kiến hai bên ký 13 thoả thuận trị giá 13.3 tỷ Mỹ kim. CT Bình còn hứa sẽ khuyến khích doanh nhân TQ đầu tư nhiều hơn và người TQ du lịch nhiều hơn tới Phi. Còn đối với Nga hậu CS là chế độ ủng hộ VNCS suốt thời Chiến tranh Lạnh và trong vấn đề Biển Đông. Bây giờ gió đã đổi chiều. Nga bị Tây Phương và Mỹ trừng phạt do vụ Nga xâm chiếm Crimea và khuấy phá biên giới Ukraine nên phải nhờ kinh tế TC. Nên Bắc Kinh đã lôi kéo được Nga đứng về phía Trung Quốc trên hồ sơ Biển Đông. Tin AP, trong chuyến công du Bắc Kinh, ngày 29/04/2016, trước báo giới, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov và Ngoại trưởng TC Vương Nghị đã đồng loạt lên tiếng tố cáo chống Mỹ về "sự can thiệp" từ bên ngoài vào Biển Đông và bán đảo Triều Tiên. TT Putin đòi hỏi Nhựt trả lại quần đảo Kuril của Nga để Nhựt phải rút thế lực ở Biển Đông về miền Bắc để bảo vệ vùng biển và đảo Kuril của Nhựt do Nga đang khuấy rối. Với việc Nga tranh chấp đảo Kuril cộng với việc TC đã và đang tranh chấp đảo Senkaku, Nhựt rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch. Nhựt khó có thể làm đầu tàu kéo các nước Á châu Thái bình dương trong liên minh chống TC, tiếp với Mỹ. TT Nga Putin không ngừng chiến thuật giải vây cho TC ở Đông Bắc Thái bình dương, mà Nga còn đi sâu, đi xa hơn xuống Đông Nam Á. Nga giúp TC bằng cách trực tiếp can thiệp vào các nước ASEAN bị TC xâm lấn, chiếm cứ và quân sự hoá biển đảo ở Biển Đông nữa. Tin Reuters, ngày 20/05/2016, tại cuộc họp thượng đỉnh ở Sotchi, Nga sẽ ký với ASEAN một hiệp ước, trong đó cho thấy Moscow đang thông qua ASEAN can thiệp vào các tranh chấp ở Biển Đông, đồng thời mở rộng ảnh hưởng Nga ở châu Á. Và như thế CSVN mất hậu thuẫn của Nga, bị Phi chận đầu và Miên bọc hậu trong vai trò chiến lược của VNCS, với mục tiêu khai thác mâu thuẫn giữa Mỹ và TC để VN ở giữa hưởng lợi. TC đã vô hiệu hoá chiến thuật đi đu dây của CSVN lợi dụng tranh chấp Biển Đông để thủ lợi từ TC và Mỹ. Hai, vì TC đã nắm chắc CSVN rồi. Sau đại hội Đảng CSVN vừa qua, phe thần phục TC đã thắng thế, nắm toàn bộ Đảng Nhà Nước CSVN, ít nhứt cũng phải 5 năm nữa. CSVN khó có một thay đổi lớn trong bang giao, hợp tác toàn diện với Mỹ vì đã, đang, và dính cứng hơn với TC. Qua đại hội 12, Tổng bí Thư Nguyễn phú Trọng cầm đầu phe thân TC từ năm 2007 đã độc diễn tái đắc cử Tổng Bí Thư Đảng CSVN. Dù có ngậm ngọc Ngoại Trưỏng Kerry, TT Obama, Đại sứ Ted Osius và những trưởng lưới CIA ở Hà nội Saigon cũng đừng mong du thuyết, vận động, trao đổi, lôi kéo lãnh đạo Đảng Nhà Nước CSVN đang nằm dưới cái bóng đè quá lớn của TC về kinh tế, chánh tri, lẫn chủ nghĩa CS. CSVN khó có thể theo lập trường các nước ASEAN thống nhất mà Mỹ kêu gọi, để đối phó với những yêu sách chủ quyền của TC dù VNCS là nước mất biển đảo nhiều nhứt vào tay TC. Con đường Hà nội đi Washington đã do TC làm cảnh sát giao thông kiểm soát, bật đèn xanh đỏ. Ba, vì TC đã đang cho tàu chiến của TQ vào bên trong các hải cảng chiến lược của CSVN như Cam Ranh và tuần tra chung với hải quân CSVN. Tuần tra chung với TC một khổng lồ, một con sói, một quan thầy thì CSVN coi như lép vế, coi như giao trứng cho ác; bí mật trận địa, bản đồ phòng thủ vào tay TC. Coi như biên giới lãnh hải của CSVN không còn nữa. Tin VOA ngày 19.10.2016 loan tải “3 chiến hạm của Trung Quốc, với gần 800 sĩ quan và thủy thủ, sẽ tới cảng chiến lược của Việt Nam [Cam Ranh], ít lâu sau khi tàu chiến Hoa Kỳ rời đi. Hai chiến hạm hộ vệ tên lửa cùng tàu hộ tống của hải quân quốc gia láng giềng phương bắc sẽ cập cảng quốc tế Cam Ranh trong 4 ngày, từ ngày 22 đến 26/10, và sẽ “giao lưu với hải quân Việt Nam”. Bốn, cũng vì phía Mỹ không thể đồng minh với một chế độ CS như VNCS. Dù tương quan giữa Philippines và Mỹ đang lung lay, sụp đổ, nhưng không phải là thời cơ CSVN có thể trở thành đồng minh của Mỹ, để Mỹ trở thành lá chắn ngăn chận đà bành trướng của TC. Bài học đồng minh chết sống với Mỹ để rồi Mỹ bỏ rơi chết tức tửi của VN Cộng Hoà hãy còn đó, CSVN không thể không rút kinh nghiệm, làm bạn với Mỹ thì khó, hai tổng thống VN Cộng Hoà một người bị Mỹ tổ chức đâm và bắn chết, một người bị triệt tiêu sinh mạng chánh trị. Còn làm kẻ thù với Mỹ thì dễ, đánh Mỹ một thời gian rồi Mỹ sẽ thoả hiệp theo kiểu chánh trị cực kỳ thực dụng và chuyên thoả hiệp của chánh trị gia của Mỹ. Bên cạnh cái khó từ phía CSVN còn có cái khó lớn hơn từ phía Mỹ. Mỹ có thể bang giao, giao thương với một chế độ CS như một đối tác, nhưng chưa có tiền lệ đồng minh với một chế độ CS. Vả lại Mỹ còn lâu mới thay đổi lập trường không đứng về phía bên nào trong các tranh chấp biển đảo ở Biển Đông, Mỹ chỉ bảo vệ tự do lưu thông thôi. Vì Mỹ tránh xung đột với TC, vì quyền lợi Mỹ với TC lớn hơn quyền lợi của Mỹ đối với các nước ở Á châu Thái bình dương. Tóm lại, việc TT Duterte tách Phi ra xa Mỹ, không phải là cơ hội và động lực để CSVN xích lại gần, đồng minh với Mỹ để có lá chắn Mỹ ngăn chận đà TC xâm lấn biển đảo của VN./. Vi Anh (Việt Báo) Đăng bởi Ha Tran on Sunday, October 23, 2016 | 23.10.16
  20. Trong vụ Formosa là đình đám lên đến đỉnh của sự uất hận. Có thể nói trong vụ này, tội ác quá lộ liễu của chế độ thì nó cũng chính là cái huyệt đào sâu thêm, sẽ chôn chặt đảng cộng sản Ba Đình trong tương lai những ngày sắp tới. Nghĩ về người dân miền Trung, ngồi viết bài này mà trong tôi bốc lên những uất nghẹn ngút trời. Hỏi ai còn sống trên đất nước này mà không căm chế độ cộng sản. Có chăng chỉ là những đảng viên, hay toàn là những người có thân nhân hy sinh cho cuộc chiến sai lầm và vô nghĩa; họ mụ mị trước bổng lộc và được tâng bốc nên không nhận ra bản chất thật côn đồ của chế độ cộng sản mà ông, bà, chồng, cha, con, em họ đã hy sinh. Những việc làm tráo trở của cộng sản, người sống trong chế độ là nạn nhân trực tiếp đã kể nhiều. Những nạn nhân là người miền Nam: "tù cải tạo", "tư sản mại bản", "Những người làm việc cho chế độ ngụy quân ngụy quyền"... Qua báo chí thời hiện đại; rồi truyện dài, truyện ngắn, hồi ký của những người dân sống trong ba miền đã vạch rõ thêm bộ mặt thật nhơ nhớp của chế độ. Mới đây, phải kể ra rằng trong vụ Formosa là đình đám lên đến đỉnh của sự uất hận. Có thể nói trong vụ này, tội ác quá lộ liễu của chế độ thì nó cũng chính là cái huyệt đào sâu thêm, sẽ chôn chặt đảng cộng sản Ba Đình trong tương lai những ngày sắp tới. Nếu tôi nhớ không lầm, là khoảng năm hai ngàn mười hay mười một gì đó, một thông tư do ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành, với nội dung: không giải quyết đơn khiếu kiện tập thể. Đọc xong cái thông tư côn đồ, trời đánh này tôi muốn... té ngữa. Hiểu rõ ra rằng một tên y tá miệt vườn, chôm được cái bằng cử nhân luật ở đâu cho nên mới ù ù cạc cạc quờ quạng ký ban hành cái luật mà mấy "ông chồng" sở khanh thời tiền nhiệm, chơi xong dong, để lại chế độ băng hoại nối tiếp cho nên y tá miệt vườn phải đỡ... đẻ ra cái luật mới có một không hai trên cõi đời này. Nhìn lại vụ Formosa, mấy ông cha đạo vì tránh tình trạng khiếu kiện tập thể chiếu theo luật rừng trước đây, nên mấy ổng tổ chức cho mỗi người viết một lá đơn, đi trực tiếp đến cơ qua công quyền khiếu kiện, phản ảnh về những thiệt hại do nhà máy Formosa gây ra. Lúc này nhà cầm quyền nại ra cái lý do hết sức là ngu xuẩn để từ chối nhận đơn, thật là... hết hồn luôn: không giải quyết đơn vì không có những chi tiết thiệt hại cụ thể làm bằng chứng. Trời đất: Formosa đã cúi đầu nhận tội, với năm trăm triệu đô la tiền đền bù. Và một điều quan trọng nữa là bộ chính trị đẩy ông "ma dê in Việt Nam" tưởng thú đứng ra chấp nhận đại sự thiệt hại chung chung cho người dân nên mới đền bù rẻ mạt trong vòng sáu tháng. Đáng lý ra trong vấn đề này phải thành lập ban điều tra độc lập để thẩm định sự thiệt hại cụ thể; thì các ông lại làm lơ, lấp liếm, lướt qua. Tức là do lỗi của nhà cầm quyền không cho điều tra. Bây giờ các ông lại đòi sự thiệt hại cụ thể. Ở đâu ra?! Không phải lỗi của người dân. Một sự tráo trở của nhà cầm quyền, thật là khốn nạn. Hai yếu tố, tội phạm Formosa chấp nhận sự đền bù và đồng phạm là nhà cầm quyền kể trên chưa đủ để làm bằng chứng nữa hay sao... hả trời! Một sự hủy hoại về tinh thần, làm mất lòng tin của người dân trên khắp cả nước đối với hải sản, kéo theo thiệt hại về vật chất của các ngư dân trên bốn tỉnh miền Trung trong một thời gian dài vô định; hai thứ đó không thể cân đong đo đếm bằng những con số cụ thể như đếm từng con cá hay lá rau. Cũng không thể tính bằng ngày, tháng, năm và những di hại còn kéo dài cho đến chừng nào mới chấm dứt được. Chỉ có các nhà khoa học thuộc tổ điều tra độc lập mới có thể lượng định. Nhưng vì chưa thỏa đáng với sự đền bù bọt bèo, do đó cho nên người dân muốn đòi phải giải quyết cho công bằng và hợp lý. Tức là đòi nhà cầm quyển phải đền bù cụ thể và phải cho thẩm định ngày, tháng và kéo dài trong bao nhiêu lâu. Một sự thiệt hại phải minh bạch, rõ ràng bằng cách phải "đếm" từ những "con cá, lá rau" Như nhà cầm quyền địa phương đòi hỏi người dân trong đơn khiếu kiện phải có. Thêm một sự tráo trở khốn nạn nữa là trong đợt khiếu kiện lần này, ngày 18-10-20016, Nhà cầm quyền địa phương ngăn chặn cha Nam không cho hàng ngàn người đi khiếu kiện, họ bảo rằng chỉ một số nhỏ người đại diện đi là đủ. Sao lại kỳ vậy? Ông Dũng không chấp nhận đơn khiếu kiện tập thể- nó là luật; thì giờ đây địa phương lại biểu rằng chỉ cần một số đại diện thôi! Một sự tráo trở theo kiểu dân ma cô trong việc điều hành quốc gia mà đảng cộng sản đã bày ra, khó mà lường và cũng khó mà chấp nhận! Nguyễn Dư (Dân Làm Báo) Đăng bởi Tiểu Nhi on Thursday, October 20, 2016 | 20.10.16
  21. Vấn đề thảm họa môi trường do Formosa đã bắt đầu nóng lên nơi nghị trường chính trị Việt Nam. Nhiều câu hỏi chất vấn được đặt ra, nhiều câu trả lời cũng đã được các cá nhân và cơ quan liên quan được công bố. Tuy nhiên, chưa có câu hỏi nào hay lý giải nào cho câu hỏi: Vụ xả thải gây nhiễm độc vùng biển Việt Nam của Formosa là vô ý hay cố ý ? Ngay sau khi sự cố xảy ra chỉ khoảng một tuần và khi có lời kêu gọi các nhà khoa học, các nhóm hoạt động đậc lập tự tổ chức lấy mẫu xét nghiệm trên mạng. Cũng chỉ thêm mấy ngày sau đó đã có thông tin kết luận trong nước biển miền lấy tại khu vực cá chết lẫn mẫu sinh thiết từ xác cá và rong rêu, bùn cát, san hô.. đều có tỷ lệ Phenol và Xianua rất cao. Thêm khoảng bốn, năm ngày nữa thì có thông tin tiếp tục cho biết ngoài Phenol và Xianua còn có tới ba, bốn loại hóa chất cực độc được phát hiện, nó hoàn toàn trùng hợp với thông tin báo chí phát hiện ra hóa đơn nhập khẩu gần 300 tấn hóa chất với hơn 40 loại và có tới gần một nửa các loại trong đó là chất cực độc. Những loại độc tố này đều có nguồn gốc là chất độc vô cơ nên dẫn đến kết luận hoàn toàn do tác nhân từ hoạt động con người mà ra. Tất nhiên, con số 296 tấn hóa chất Formosa nhập về chỉ là trên một vận đơn, còn bao nhiêu tấn trong những vận đơn khác hoặc nhập lậu thì không ai biết. Kèm theo những kết quả phân tích, người ta không khó và có nhiều cơ sở để khẳng định Formosa chính là thủ phạm chứ không cần chờ tới gần ba tháng sau như Chính phủ Việt Nam công bố. Việc người dân bức xúc trước một thảm họa quá lớn, quá nguy hiểm như vậy không có gì khó hiểu. Sự bức xúc được thổi bùng thêm từ chính việc Chính phủ Việt Nam tự thỏa thuận nhận 500 triệu dollar bồi thường mà không hề đếm xỉa tới ý kiến người dân lẫn việc xác định một cách nghiêm túc mức độ thảm họa. Không những thế, chính quyền lại ra tay đàn áp một cách dã man những người xuống đường đòi minh bạch thông tin và đòi xử lý Formosa. Trong khi đó, mặc dù nhiều đại biểu Quốc hội đặt vấn đề giữa nghị trường của cơ quan lập pháp quyền lực nhất, nhưng với câu trả lời báo chí về khả năng lập một Ủy ban điều tra về Formosa hay không, bà Chủ tịch QH nói ngay là “Chưa có chủ trương. Để có một kết luận về Formosa, Chính phủ đã rất cố gắng, huy động nhà khoa học trong và ngoài nước, điều tra thực địa để cuối cùng Formosa phải cúi đầu nhận lỗi, cam kết bồi thường và khắc phục sự cố. Đó là thắng lợi bước đầu của chúng ta.” (!) Điều đó đồng nghĩa: QH sẽ im lặng như một sự đồng ý với cách giải quyết của Chính phủ. Tất cả đều cho thấy một kết luận rõ ràng: Tất cả các cơ quan quyền lực trong bộ máy của chế độ ở Việt Nam đều định hướng tiếp tục cho phép Formosa tồn tại và vụ đầu độc biển được chốt lại trách nhiệm trong phạm vi 500 triệu dollar mà Chính phủ đã công bố. Tại sao lại có những động thái kỳ lạ, thậm chí trái pháp luật như trên? Chắc chắn câu trả lời không còn nằm trong phạm vị chính sách kinh tế thuần túy. Bởi lẽ: Nếu chỉ vì chính sách kinh tế, mọi sai phạm đã có luật điều chỉnh. Nhưng ở đây, vụ việc Formosa đã vượt qua cả luật. Điều gì khiến chính quyền Hà Nội phải trì hoãn tới ba tháng, thỏa thuận xong cả tiền bồi thường rồi mới công bố? Nếu nói chỉ vì lo mngại ảnh hưởng chính sách thu hút đầu tư lại càng sai. Vì ngày nay, các doanh nghiệp trên thế giới điều hiểu rằng mọi hoạt động kinh doanh phải gắn với môi trường như một điều kiện để tồn tại và phát triển chứ không ai nghĩ tới kinh doanh bất chấp như Formosa. Ngay tại Việt Nam, Bầu Đức và Hoàng Anh Gia Lai đã phải trả giá thế nào khi đầu tư vào Lào nhưng bị quốc tế truy việc phá rừng là ví dụ không hề xa lạ. Nếu nói vì thể diện ngoại giao do liên quan yếu tố nước ngoài thì càng không. Vì bản thân chính quyền Hà Nội đã liên tục phát đi thông điệp “Fomosa là Doanh nghiệp Đài Loan”, nhưng chính chính quyền và truyền thông Đài Loan là nơi phát đi đầu tiên về câu trả lời Formosa Hưng Nghiệp là thủ phạm, đồng thời bày tỏ thái độ lên án rất rõ ràng trước công luận. Mặt khác, quan hệ ngoại giao là quan hệ sòng phẳng, dựa trên yếu tố hai bên cùng có lợi, không lý do gì vì yếu tố ngoại giao mà phải bao che cho một doanh nghiệp gây thiệt hại ghê gớm như vậy. Chỉ có thể là một âm mưu cố ý đầu độc gắn với mưu toan chính trị. Quay lại vấn đề các loại chất độc được phát hiện trong các mẫu phân tích liên quan thảm họa môi trường biển. Các nhà phân tích khoa học đã chỉ ra rằng: Công suất của Formosa trong điều kiện hoạt động hiện tại mới chỉ đạt 25% (tương đương khoảng 1 triệu tấn/năm) thì khối lượng Phenol và Xianua sinh ra trong quá trình sản xuất (luyện cốc) hoàn toàn không thể đủ để đầu độc biển với diện rộng và nhanh như vậy. Lý do “hệ thống xử lý gặp sự cố mất điện trong 5 ngày” càng không thuyết phục vì với 5 ngày sản xuất, lượng Phenol và Xianua - dù được xả tự do không qua lọc – cũng quá ít để gây ra tác động ghê gớm đến vậy. Câu trả lời chính xác có thể hé mở từ vài chứng cứ như sau: Thứ nhất: Formosa biết rõ và cố ý tẩu tán chất thải độc đi khắp nơi và các nơi mà chất thải của Formosa được phát hiện đều khá nhạy cảm đối với sinh hoạt con người. Việc kết luận Formosa “biết rõ” không cần bàn cãi vì với bất cứ ai làm trong ngành luyện kim đều biết chất thải từ ngành này mức độ độc hại ra sao. Chính vì vậy mà chính Phó giám đốc đối ngoại của Formosa đã buột miệng trả lời ngay bằng câu nói gây sóng gió “chọn thép hay chọn tôm cá”. Phần “cố ý” ở vế sau chính là Formosa biết rõ nó độc hại nhưng các vị trí chôn lấp chất thải trên đất liền của Formosa lại không có những vị trí hẻo lánh, cách xa môi các hoạt động dân cư hoặc môi trường nước. Hãy xem bản đồ mới nhất các vị trí chôn giấu chất thải của Fomorsa vừa được đăng tải trên báo điện tử Vnexprees.net thì các vị trí phát hiện chất thải của Formosa luôn gắn với các khu vực có độ tương tác cao với sinh hoạt của con người như nguồn nước, khu sinh hoạt cộng đồng, khu dân cư... Đây không thể biện minh là yếu tố trùng hợp hay vô tình được. Bản đồ các vị trí phát hiện chất thải của Formosa trên đất liền (VnExpress.net) Một mảng tối khác mà ngay cả chính quyền Việt Nam đến nay vẫn che giấu là: Danh mục các chất cực độc có mặt trong bảng kê khai hồ sơ nhập khẩu của Formosa đã bị lộ trước truyền thông công khai. Nhưng đến nay, ngoài cái tên thương mại trên tờ vận đơn bị lộ thì công thức của nó là gì, các đợt nhập khác bao nhiêu? Đã dùng bao nhiêu?.v.v. đều rơi vào im lặng không có bất cứ thông tin nào khác. Việc một số phân tích độc lập , trùng hợp với báo cáo phân tích của các cơ quan khoa học nhà nước phát hiện ngoài Phenol và Xianua, còn có một số độc chất khác cùng với sự có mặt chất Hydroxyt Sắt – là chất khi trộn chung vào sẽ khiến Phenol và Xianua khó phân hủy hơn trước khi gây tác hại cho môi trường là một lý do để khẳng định chất độc gây thảm họa môi trường do Formosa phát tán không chỉ là hóa chất sử dụng cho luyện thép hay trong quá trình luyện thép. Vấn đề Formosa cố ý phát tán chất độc đến đây có lẽ không cần phân tích thêm. Vấn đề còn lại là câu hỏi: Nó có gì liên quan một đòn cân não chính trị hay không? Xét về thời điểm xảy ra vụ việc thì thảm họa xả độc môi trường biển của Formosa (tháng 4/2016) là thời điểm mà TW ĐCSVN đang tổ chức bầu cử cho giàn lãnh đạo nhiệm kỳ Khóa 14 và chuẩn bị chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Obama tới Việt Nam. Trong bối cảnh các sự kiện nhạy cảm như vậy, những thủ đoạn và hành động nhằm truyền tải những thông điệp cảnh cáo, gây sức ép luôn hiệu quả. Nó chính là lý giải cho việc Chính phủ Việt Nam phải vội vã âm thầm quyết định làm một việc trái pháp luật là chấp nhận cho Formosa bồi thường chỉ 500 triệu dollar. Phía sau động cơ chính trị này thì những yếu tố nào thực sự đủ gây sức ép cho Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc và cao hơn là cả TW Đảng CSVN ? Về kinh tế: Ở đây không nói về thiệt hại kinh tế mà người dân và cả nhà nước Việt Nam hiện tại lẫn tương lai bị mất do thảm họa vì chưa có một thống kê tạm coi là tương đối vào lúc này. Khi mà tác hại của nó chưa ai biết sẽ còn những gì và bao lâu mới xử lý xong. Khía cạnh kinh tế được xét đến là yếu tố kinh tế tạo ra sức ép trong thông điệp mà không đối tượng nào khác hơn là chính quyền Trung Quốc - đối tượng duy nhất thủ lợi - đã đè lên Chính phủ Việt Nam. Truyền thông nói nhiều tới con số hơn 20 tỷ dollar tổng mức đầu tư của Formosa tại KCN Vũng Áng, nhưng lờ tịt đi thực chất cấu trúc vốn của dự án ra sao. Về căn bản, KCN Vũng Áng là của Công ty Fomosa HA TINH (CAYMAN) LIMITED. Mức vốn điều lệ là 94,500 tỷ VNĐ (4,2 tỷ USD). Nguồn vốn đầu tư vào KCN Vũng Áng mà cụ thể hiện nay là khu liên hợp sản xuất thép được xác định theo nguyên tắc đầu tư FDI, theo đó, Formosa Ha Tinh sẽ có một phần vốn của Công ty đầu tư trực tiếp và còn lại là vốn vay ưu đãi. Nguồn vốn vay này không đâu khác hơn là vay từ ngân hàng Trung Quốc thông qua thỏa thuận vay mà Chính phủ Việt Nam đã ký và được thiết kế sẵn dành cho Dự án của Formosa. Điều này lý giải tại sao Formosa đến nay vẫn nợ tiền thuê đất của Tỉnh Hà Tĩnh hơn một trăm tỷ đồng (phải dùng tiền của doanh nghiệp) và nhiều khoản nợ khác mặc dù đã đầu tư và giải ngân lên tới gần chục tỷ dollar (chủ yếu gần như toàn bộ là vốn vay). Nếu như tính hết các khoản nợ chưa thanh toán từ thi công, máy móc, thiết bị nhập khẩu.v.v. thì không khó để suy ra là con số tiền đầu tư thực sự của Formosa vào Hà Tĩnh không đáng là bao nhiêu. Trong khi khoản nợ mà Chính phủ Việt Nam đã nhận vay liên quan cho riêng Formosa chắc chắn không dưới chục tỷ dollar (!) Với khoản nợ này, Việt Nam sẽ phải trả dù đóng cửa Formosa hay không. Nó không khác mấy với các dự án như Bauxite Tây Nguyên, đường tàu điện Cát Linh.. và rất nhiều các dự án khác do Trung Quốc đầu tư hoặc thắng thầu nhờ liên quan nguồn vốn từ Trung Quốc. Hiệu quả hay không, dùng được hay không thì tất cả vẫn là nợ phải trả ! Đây là lý do duy nhất khả dĩ giải đáp được cho câu hỏi tại sao Chính phủ Việt Nam không thể cương quyết xử lý Formosa cũng như các dự án có nguồn vốn vay từ Trung Quốc. Nó cũng là lý khiến Chính phủ phải chấp nhận chịu thêm một cú siết của cái thòng lọng khi nhận khoản tiền bồi thường mà về mặt pháp lý sẽ giết chết mọi uy tín lẫn tính pháp lý về mặt chính trị, xã hội. Chưa nói những cái bẫy hối lộ mà chắc chắn không ít quan chức đã nhúng tay vào, giờ đây khó bề mà che giấu. Về an ninh chính trị: Phản ứng gay gắt của người dân khi xuống đường biểu tình thực ra chỉ là vấn đề không quá lớn về mặt tác động tới khía cạnh an ninh xã hội trong bối cảnh hiện nay. Điều nguy hiểm nhất chính là kịch bản rối loạn tương tự tháng 4 năm 2014 khi Trung Quốc kéo giàn khoan HY 981 vào vùng biển Việt Nam. Dù chỉ cách nhau hai năm, nhưng nếu kịch bản quá khích tái diễn thì sẽ khác xa nhau rất nhiều. Yếu tố đe dọa an ninh lớn nhất không phải là ở người dân Việt Nam hành động quá khích – vì đã rút ra kinh nghiệm sau vụ HY 981 – mà chính là ở lực lượng lao động Trung Quốc lên tới cả triệu người đã nằm khắp nơi trên đất Việt Nam. Một chi tiết “trùng hợp” khác là sau vụ Formosa thì lượng du khách Trung Quốc tới Việt Nam tăng một cách bất thường, các hành vi quấy rối, vi phạm pháp luật của dạng “du khách” này cũng xuất hiện một cách công khai, thể hiện sự bức xúc, cố ý gây gổ… thời gian vừa qua không dễ có lý do để loại trừ rằng nó không liên quan ý đồ “tăng người” từ phía Trung Quốc. Không cần nói đây là quân đội trá hình, chỉ cần hình dung lực lượng công nhân và du khách này sẽ phản ứng ra sao khi xảy ra những xô xát tương tự năm 2014 thì sẽ hiểu sức đe dọa của nó lớn ra sao. Có vẻ như đang có một kịch bản mới cho Formosa nhằm cố gắng giữ lại cái kho thuốc độc Formosa mà không bị nó phát nổ ngay lúc này khi bắt đầu úp mở “sự cố kỹ thuật liên quan nhà thầu phụ”. Nhưng dù nguy hiểm đến đâu, Fomosa không còn bất cứ lý do gì tồn tại ở Việt Nam là nhận thức của cả dân tộc. ĐCSVN hay Chính phủ Việt Nam nếu tiếp tục bất chấp thì chính Formosa là bản án tử mà nền chính trị Việt Nam sẽ phải đối mặt. Thiên Điểu (Việt Nam Thời Báo) Đăng bởi Tiểu Nhi on Wednesday, October 19, 2016 | 19.10.16
  22. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố giữa nhân dân rằng: “Chống tham nhũng khó vì ta tự đánh ta” thì đó là lời thú nhận chân thành nhất. Nó hoàn toàn không lú, không ngớ ngẩn như rất nhiều người cười cợt. Nó thành thật, thành thật đến ngu xuẩn và vì vậy nó bị mạt sát. Khi lời nói thật bị mạt sát Người ta thường nói sự thật mất lòng, ngay cả một người tự nhận là mình vừa hiếp dâm, giết người, hay nhẹ hơn như ăn cắp, đốt nhà…cho dù là thành thật thì người nghe ban đầu vẫn nghi ngờ cho sự thành thật đó và với bản năng của con người ít nhất một thời gian sau người ta mới có thể hoàn toàn cảm thông, chia sẻ hay tha thứ. Nhưng có cái thành thật thú nhận lại bị người ta mạt sát và thời gian càng lâu, sự mạt sát càng tăng cường độ bởi lời trần tình ấy được phân tích qua lăng kính một sự thật khác, sự thật của tội ác và lòng tham lam vô tận của một tập đoàn, một chế độ. Khi ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố giữa nhân dân rằng: “Chống tham nhũng khó vì ta tự đánh ta” thì đó là lời thú nhận chân thành nhất. Nó hoàn toàn không lú, không ngớ ngẩn như rất nhiều người cười cợt. Nó thành thật, thành thật đến ngu xuẩn và vì vậy nó bị mạt sát. Nó bị mạt sát vì đã thò ra đuôi cáo. Con cáo luôn giả vờ ngây ngô để được yên vị trên chiếc ghế cao nhất. Luôn kêu gọi chống tham nhũng để cuối cùng phải tự nhận bọn tham nhũng là chúng ta, những người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà tôi, Nguyễn Phú Trọng là người đảng trưởng. Tôi cũng như các đồng chí, chúng ta đều không ít thì nhiều đều tham nhũng vì vậy thật là khó đánh, vì đánh càng trúng thì tôi và chúng ta cùng đau, cùng vỡ đầu sứt trán. Có lời thú nhận nào khẩn thiết và đáng …mạt sát như vậy hay không, nhất là trong thời điểm này, một thời điểm mà cả nước đang căng lưng dưới bầu trời u ám của bão lũ, của ô nhiễm, từ tiếng khóc đứt ruột của hơn 30 gia đình có người thân vùi thây trong dòng nước cuồng nộ bởi những chiếc đập thủy điện “đúng quy trình”. Lời thú nhận ấy sẽ còn âm vang sâu rộng trong các bài viết phân tích của nhiều tác giả sau này ngay cả khi ông Trọng và đảng của ông may mắn hạ cánh an toàn và đảng của ông may mắn không bị trả thù theo kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” của người Do Thái. Lời thú nhận ấy cũng sẽ bị đem ra làm bằng chứng cho hành vi của Đảng Cộng sản từng làm trên mảnh đất Việt Nam. Ông Nguyễn Phú Trọng vắng mặt lúc người dân đau khổ và khi xuất hiện trở lại càng làm cho họ thù hằn uất hận nhiều hơn. Giá như ông cứ giả bệnh nằm viện trong khi dân chúng lặn hụp trong trùng trùng sóng nước thì người dân sẽ làm ngơ cho ông. Đàng này ông được xum xuê bợ đỡ như một lãnh tụ đạo đức. Ông cười cợt chúc người này, tiếp người khác như ông là người ngoại quốc tới thăm Việt Nam. Ông không ý thức một việc nhỏ nhưng lại lãnh chức lớn nhất Việt Nam chỉ có hai giải thích: Một là hơn bốn triệu đảng viên đều đáng nguyền rủa như ông bởi họ thành tâm muốn ông làm lãnh tụ cho họ. Hai là hơn bốn triệu đảng viên ấy lợi dụng sự lú lẫn của ông để họ tiếp tục được vơ vét bởi tin chắc rằng ông cũng tham nhũng như họ. Hai giải thích tương đối giống nhau nhưng gộp chung lại đó là cách lý giải hay nhất cho vai trò của ông Trọng từ trước tới nay. Ông là người lãnh đạo Cộng sản đáng được toàn đảng yêu nhất mặc dù bị toàn dân khó chịu và ghét bỏ nhất. Đó là nguyên do sự thật ông tỏ bày một cách thảnh thật nhất lại đáng bị mạt sát hơn bất cứ lời tự thú nào. Chính ông ra lệnh đánh Trịnh Xuân Thanh nhưng cũng ra lệnh hoãn binh đối với Đinh La Thăng là thầy của Thanh khi còn ở Tập đoàn dầu khí. Ông đánh thằng nhỏ nhưng lại sợ thằng lớn hơn. Ông đánh kẻ chạy đi nhưng lại phân vân với người đang trừng mắt nhìn ông ngay tại cái thành phố to nhất nước này. Vậy thì ông ơi, nếu người khác là ông họ sẽ không dại gì thú nhận cái sự thật chúng ta đều tham nhũng. Có nghĩa là ông cũng là Thanh là Thăng là hàng ngàn kẻ khác trong cái Đảng này. Bời vậy người dân mạt sát ông là phải. Chọn lựa bị mạt sát để đưa ra thông điệp đồng cảm cho hơn bốn triệu đảng viên là một thái độ khôn ngoan. Vì vậy nếu là đảng viên tôi cũng tuyên bố sẽ bầu cho ông thêm một nhiệm kỳ nữa cho tới khi nào lời tuyên bố sắp tới của ông hết bị mạt sát mới thôi. Cánh Cò (Blog RFA) Đăng bởi Tiểu Nhi on Wednesday, October 19, 2016 | 19.10.16
  23. “Nhất thể hóa” – một chủ trương “gom gọn” một số cơ quan đảng với cơ quan chính quyền, đồng thời tiết giảm đến mức tối thiểu kinh phí cấp cho các tổ chức hội đoàn – đó là cách giúp cho đảng có thêm tiền để tiêu xài trong hoàn cảnh bức bách. Trong lịch sử trung thành thực hiện nhiệm vụ “cánh tay nối dài của đảng,” chưa bao giờ các tổ chức chính trị – xã hội một thời vang bóng lại phải chịu cảnh rã rượi thân xác và bị công luận đồng thanh lên án như vào lúc này, khi dự thảo luật về hội bất thần ngoặt sang hướng “hết tiền” vào những tháng cuối năm 2016. Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội Nông Dân Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam và Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam – 6 tổ chức chính trị xã hội ấy – đang phải đối mặt với không chỉ luật về hội mà cay đắng hơn cả là câu hỏi “tiền đâu.” “Vô tích sự” Trong khi Giáo Sư Nguyễn Đình Cống – một tiếng nói bất đồng ở Hà Nội – nói thẳng rằng cần suy nghĩ đến việc giải thể Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, thì một cựu quan chức cấp sở ở Sài Gòn cũng nói công khai trong một cuộc họp là có thể giải tán Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. “Vô tích sự” và “phản cảm” là từ mà ngày càng nhiều người bức bối để trực chỉ vào một số “cánh tay nối dài của đảng.” Nhưng xem ra, đó còn là từ ngữ dễ chịu. Khó chịu hơn nhiều là những nghi ngờ về tính khuất tất quá lâu năm trong các tổ chức này trong cơ chế hoàn toàn khép kín về tiêu xài ngân sách mà do đó là “nuốt” tiền đóng thuế của dân. Chỉ đến năm 2016, báo chí mới “vô tình” phát hiện là hàng năm, ngân sách đã phải vung đến 14,000 tỷ đồng cho các tổ chức chính trị – xã hội. Nhưng sau đó, con số này đã trở nên quá nhỏ bé khi xuất hiện một đánh giá của Viện Nghiên Cứu Kinh Tế và Chính Sách (VERP) cho biết nguồn lực xã hội được rót vào các tổ chức công chiếm tới 1.7% GDP của cả nước, tức là tương đương với hơn 71,000 tỷ đồng. Trong thực tế, một trong những nguồn lực lớn nhất mà các tổ chức quần chúng công sử dụng là các khoản chi cho nguồn nhân lực. Theo Tổng Cục Thống Kê, vào năm 2012 Việt Nam có 246,144 người làm việc cho 34,378 cơ sở của tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước đãi ngộ theo chế độ. Số cán bộ, công chức làm việc cho các tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước trả lương chiếm 7.2% nhân lực làm việc cho nhà nước và 1.1% tổng lực lượng lao động xã hội. Nếu tính cả số cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường, thôn, xóm (hoạt động trong các tổ chức quần chúng công cấp cơ sở), tổng số người hoạt động trong lĩnh vực tổ chức quần chúng công (có biên chế và không có biên chế) ước tính vào khoảng 337,981 người. Một nhà phản biện độc lập ở Việt Nam bức bối: đã đến lúc các tổ chức chính trị – xã hội trên nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ. “Phản cảm” Nhiều người đánh giá rằng so với nguồn kinh phí rất lớn nhận được hàng năm từ bầu sữa nhà nước, công sức và hiệu quả của các tổ chức chính trị – xã hội trên bỏ ra là hoàn toàn bất tương xứng. Còn nếu nhìn từ góc độ ngân sách được cấu tạo bằng tiền đóng thuế của dân và tiền vay mượn nước ngoài mà các đời dân chúng phải nai lưng gánh chịu, sự thể còn trở nên tàn nhẫn hơn nhiều. Cho đến nay, “thành tích” lớn nhất của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam là giúp đảng cầm quyền ngăn chặn và loại hầu hết các ứng cử viên độc lập, mà bằng chứng sống đông nhất đã hiện hình trong cuộc bầu cử Quốc Hội hồi Tháng Năm, chủ yếu qua những màn đấu tố thô bạo không khác mấy so với thời cải cách ruộng đất cách đây đến bảy chục năm: số người tự ứng cử lọt vào Quốc Hội đã giảm đi phân nửa so với những kỳ bầu cử Quốc Hội trước đó. Cũng trong cuộc bầu cử Quốc Hội này, thậm chí tỷ lệ người ngoài đảng đã rớt xuống chỉ còn khoảng 4%, so với “10% theo tiêu chí.” Một bằng chứng sống sượng khác: Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đã hầu như không chia sẻ với bất kỳ tổ chức và nhân vật tôn giáo nào khác thể hiện tiếng nói và hành dộng khác với chủ ý độc trị của đảng cầm quyền. Thậm chí ngược lại, giới lãnh đạo của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đã tự nguyện biến thành cánh tay đắc lực giúp cho đảng bóp nghẹt hơn quyền tự do tôn giáo của người dân – được hiến định qua các Hiến Pháp nhưng còn lâu mới được khẳng định trong một văn bản luật về tôn giáo. Trong khi đó, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam cũng trở nên vô tích sự và phản cảm không kém. Từ khi có Luật Lao Động, tổ chức này đã chưa hề chủ động tổ chức một cuộc đình công hoặc lãn công nào cho công nhân, bất chấp vô số khó khăn và bất công trùm phủ lên đầu lớp công nhân vừa nghèo vừa đói cùng hàng ngàn cuộc đình công tự phát của công nhân nổ ra hàng năm. Không những không hỗ trợ công nhân, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam lại nối thêm một cánh tay giúp công an ngăn chặn đình công. Trong một số trường hợp, công nhân còn phát hiện chính cán bộ công đoàn làm công tác chỉ điểm để “khoanh vùng đối tượng” và sau đó là bắt bớ tống giam những công nhân khởi xướng đình công. Từ rất nhiều năm qua, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam cũng đương nhiên trở thành một khâu trung gian hưởng ít nhất 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp. Số tiền không nhỏ này, cộng với khoản ngân sách mập mạp hàng năm, đã biến Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam thành một gã trọc phú ngồi mát ăn bát vàng. Hầu như tương tự, một tổ chức chính trị – xã hội khác là Hội Nông dân Việt Nam đã không hề lên tiếng trước cảnh nạn hàng triệu nông dân bị mất đất, bị cướp đất và chịu rủi ro về những bất công đất đai. Trong bối cảnh nạn trưng thu đất đai quá bất công vọt lên từ 10-20 lần, thậm chí hàng trăm lần giữa giá bán lẻ ra thị trường và giá bồi thường mỗi mét vuông đất cho nông dân, Hội Nông Dân Việt Nam đã trở thành một trong những tổ chức chính trị – xã hội “khiếm thính” và “khiếm thị” nhất, bất chấp không khí tang tóc của lớp nông dân bị bần cùng hóa tuyệt đối đè nặng trên mọi vùng đất nước. Còn với Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh và Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, hai tổ chức này chỉ chuyên chú tổ chức công tác “vận động” những người mang tinh thần phản kháng Trung Quốc không đi biểu tình với lý do “đã có đảng và nhà nước lo.” Thậm chí, một số cán bộ đoàn – được dư luận xã hội nhận dạng – còn trở thành những nhân viên công an không sắc phục khi theo dõi, tiếp tay cho công an bắt bớ người dân yêu nước… “Ra đường” Dự luật về Hội đang mở ra cơ hội để giảm bớt phần nào cảnh tàn nhẫn trên. Ngay cả một số chuyên gia nhà nước cũng đang đòi phải đưa cả 6 tổ chức chính trị – xã hội trên vào danh sách hội đoàn phải chịu sự điều chỉnh của luật về hội. Cụ thể hơn, các tổ chức này sẽ không còn được giữ những đặc quyền và đặc lợi như trước. Chi tiết hơn, những tổ chức này sẽ phải chịu sự giám sát của luật pháp, đặc biệt vè thu chi tài chính. Và chưa phải hết, ngân sách chỉ chi cho hội đoàn những khoản liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ chính trị” mà nhà nước giao phó, còn không có nhiệm vụ thì tự mà lo thân. Ngân sách khốn quẫn đang bị siết lại nhanh chóng và bầu sữa dành cho các tổ chức chính trị – xã hội cũng cạn kiệt nhanh không kém. Từ năm 2014 và sau đó, ngân sách chi cho các tổ chức hội đoàn nhà nước đã giảm hẳn, nhiều khả năng chỉ còn khoảng một nửa cho những tổ chức hội đoàn lớn, trong khi khá nhiều tổ chức hội đoàn nhỏ đã gần như biến mất nguồn chi ngân sách vào năm 2016. Đây cũng là “hoàn cảnh” của ngân sách quốc gia khi phải trả nợ quốc tế đến $20 tỷ vào năm 2015 và ít nhất $12 tỷ vào năm 2016. Và sang đầu năm 2017, chính phủ Việt Nam lại phải tiếp tục trả nợ nước ngoài vài chục tỷ đô la, ngân sách sẽ lấy đâu ra tiền dù đã phải thoái vốn tại hàng chục “con bò sữa?” Trong tình cảnh đảng còn không đủ tiền để lo lắng cho tương lai “không biết đến cuối thế kỷ này có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay không,” làm sao các tổ chức hội đoàn sinh ra chủ để “ăn chơi nhảy múa” lại có phần? “Nhất thể hóa” – một chủ trương “gom gọn” một số cơ quan đảng với cơ quan chính quyền, đồng thời tiết giảm đến mức tối thiểu kinh phí cấp cho các tổ chức hội đoàn – đó là cách giúp cho đảng có thêm tiền để tiêu xài trong hoàn cảnh bức bách. Số phận những “cánh tay nối dài của đảng” cũng bởi thế sẽ không còn thể nào trở về thời hoàng kim đặc quyền đặc lợi như trước đây. Một cách tự nhiên mà chẳng cần tác động nào từ phản ứng của người dân và phong trào đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước, nhiều hội đoàn nhà nước sẽ phải tự giải thể vì hết kinh phí hoạt động, nhiều quan chức hội đoàn sẽ phải “ra đường,” còn sáu hội đoàn chính trị – xã hội lớn nhất của đảng cũng chẳng thể kỳ vọng “chết trên núi tiền” như trước kia, cho dù không phải chịu sự điều chỉnh của luật về hội. Để đương nhiên, tiếng nói phản biện chủ yếu cho quyền dân sẽ phải dần chuyển sang khối xã hội dân sự độc lập và truyền thông tự do không chịu ý chỉ của nhà cầm quyền. Phạm Chí Dũng (Người Việt) Đăng bởi Tiểu Nhi on Tuesday, October 18, 2016 | 18.10.16
  24. "Của chung ai khéo vẫy vùng... thành riêng". Biển bị ô nhiễm, rừng bị tàn phá, ruộng đồng khô cằn nhiễm mặn, lòng tham không đáy của kẻ cầm quyền cướp đoạt vô hạn tài sản của nước, của dân, tạo nên nghịch cảnh "người ăn không hết, kẻ lần không ra". Các thế hệ tương lai rồi sẽ ra sao? Trong cuốn sách Le Capital au 21ème Siècle (Tư bản thế kỷ 21) nhà nghiên cứu Thomas Piketty cho rằng về kinh tế học, vấn đề bao trùm quan trọng nhất trong mọi xã hội xưa nay là vấn đề phân phối và tái phân phối của cải xã hội. Cuốn sách ông đồ sộ hơn nghìn trang, có hàng nghìn thống kê, biểu đồ, hàng vạn số liệu, tỷ lệ, ghi lại các nền sản xuất từ thời cổ đại đến nay, hơn 20 thế kỷ. Cuốn sách của ông phát hành năm 2013, được dịch ngay ra 14 thứ tiếng, bán chạy đến mức kỷ lục suốt 2 năm 2014 và 2015, và nay vẫn còn ăn khách, trở thành sách kinh điển mới nhất về kinh tế cho giới nghiên cứu và sinh viên. Cuốn sách của ông làm chấn động công luận, nhất là giới kinh tế học trẻ về tình trạng căng thẳng, bi thảm, nguy hiểm nhất hiện nay, đó là tình trạng thu nhập chênh lệch nhau giữa nhóm người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất, giữa người giàu nhất và người nghèo nhất trong xã hội,và đang ngày càng mở rộng đến mức kinh hoàng, phi lý nhất. Thomas Piketty mất hàng chục năm sưu tầm số liệu về vấn đề bất công xã hội lớn nhất hiện nay, đó là người giàu cứ giàu thêm mãi, và người nghèo ngày càng nghèo thêm. Một lao động châu Phi với lợi tức trung bình 600 đôla/năm phải làm việc 1.000 năm mới có thu nhập bằng 1 năm của 1 tỷ phú Hoa Kỳ. Nhìn chung trên thế giới, nhóm 10% những kẻ giàu nhất sở hữu hơn 50% tài sản toàn cầu, trong khi nhóm 90% số dân chúng chia nhau 50% tài sản còn lại. Và 86 người gìàu nhất thế giới thuộc các nước phát triển cao hiện chiếm hơn một nửa giá trị - trên 50% - tài sản của toàn thế giới. Có những kẻ giàu hàng trăm, nghìn tỷ đôla và có người nghèo không có 1 đôla dính túi, không đất, không nhà, còn mắc nợ dài dài. Ở Việt Nam không ai biết rõ tình trạng thu nhập thật sự của cả quan chức lẫn dân thường vì tài chính không công khai minh bạch. Tình trạng bất công xã hội ngày càng thêm gay gắt, người giàu nhanh do quyền lực ngày càng đông đảo, người dân càng nghèo thêm do lương thấp, năng suất kém, thuế má cao, thất nghiệp nhiều và nhất là tham nhũng tràn lan, càng chống càng phát triển mạnh hơn. Một tâm lý xã hội rất nguy hiểm đang lan rộng: của chung không ai xót. Của xã hội, tha hồ vét. Xin kể vài trường hợp tiêu biểu. Một xe tải chở các két bia của một công ty quốc doanh hồi tháng 2/2016 đi qua Long An gần Sài Gòn bị tai nạn, vài két bia rơi xuống lòng đường. Thế là dân qua đường tranh nhau từng lon bia, và chỉ trong vài phút cả 2.000 lon bia chở trên xe biến mất sạch; dân sống hai bên đường cũng nô nức tham gia hôi của; người lái xe cũng nhanh tay giữ 4 két bia cho mình. Tôi nhớ lại nhà sử học Trần Quốc Vượng từng nói về chính sách "ruộng đất là thuộc sở hữu toàn dân" của đảng Cộng sản, như sau: Trống làng ai đánh thì thùng, Của chung ai khéo vẫy vùng... thành riêng! Ai là ai? Là đảng Cộng sản chứ còn ai nữa! Ở gần nhà máy xi măng Hải Phòng cũng vậy. Một đoàn xe chở đầy xi măng quốc doanh đỗ ngoài cổng, một đêm xi măng biến sạch, công nhân và bà con chung quanh tha hồ xúc chia nhau, hòa cả làng. Của chung là thuộc mọi người. Sở hữu toàn dân là thế. Cha chung không ai khóc là vậy. Tình hình nhà máy điện Dung Quất hồi năm 2014 cũng tương tự. Nhà máy tuyển hàng trăm công nhân trẻ từ Nghệ An vào tập sự. Chỉ trong một đêm, các công nhân mang tâm lý tiểu nông vụ lợi đã thi nhau dùng kềm lớn tháo hơn 20.000 viên ốc bù lon lớn của nhà máy và đường xe lửa đem ra chợ Cồn bán rẻ cho các bà buôn đồng nát lấy tiền uống bia. Với họ, đó là của chung, của trời cho, tội gì mà không lấy, không lấy là dại. Đó cũng là tâm lý của các quan chức Cộng sản. Hàng trăm tỷ đôla của các quỹ ODA và FDI là của trời cho, lấy chia chác ngầm cho nhau là chuyện nhỏ, dại gì mà không lấy! Cuộc họp Trung ương đảng cuối năm và cuộc họp Quốc hội ngày 10/10 bàn về việc thúc đẩy nổ lực chống nạn tham nhũng rất nên thảo luận một đề tài rộng lớn hơn, thiết thực hơn, đó là vì sao chủ trương "Nhà nước kiến tạo phát triển và công bằng xã hội" lại dẫn đến kết quả thành "Nhà nước kiến tạo bất công, tham nhũng", "Nhà nước tàn phá tài nguyên quốc gia, Nhà nước làm kiệt quệ nền tài chính và tạo nên nợ nần chồng chất". Các cán bộ nhà nước và các ông bà nghị sỹ rất nên tìm đọc kỹ cuốn sách Le Capital au 21ème Siècle Thomas Piketty (bản lược dịch sang tiếng Việt của Nguyễn Quang hiện có trên mạng Thời Đại Mới và mạng Việt-Studies). Các nhà kinh tế Việt Nam nên có nhiều thống kê về tình hình thu nhập của các lớp dân cư nước ta, chênh lệch giàu nghèo ra sao, vì sao bất công mở rộng đến mức kỷ lục hiện nay. Các tỷ phủ Cộng sản mới vượt rất xa các ông chủ thực dân Pháp, các đại điền chủ Gò Công – Cần Thơ, các nhà tư bản lớn cỡ Bạch Thái Bưởi, Hui Bon Hoa thời xưa. "Của chung ai khéo vẫy vùng... thành riêng". Biển bị ô nhiễm, rừng bị tàn phá, ruộng đồng khô cằn nhiễm mặn, lòng tham không đáy của kẻ cầm quyền cướp đoạt vô hạn tài sản của nước, của dân, tạo nên nghịch cảnh "người ăn không hết, kẻ lần không ra". Các thế hệ tương lai rồi sẽ ra sao? Bên cạnh những thành tích lịch sử "dỏm" của đảng Cộng sản được phô trương trơ trẽn trên khẩu hiệu, đó là thành tích thật nổi bật nhất mà các người lãnh đạo phải nhìn thẳng cho thật rõ và có những biện pháp có hiệu quả, trước sự mong đợi, giám sát của toàn dân. Bùi Tín * Blog của nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ. (VOA) Đăng bởi Tiểu Nhi on Monday, October 17, 2016 | 17.10.16
  25. Các huyện miền núi Quảng Bình nước lũ dâng ngập nhà dân Cảnh tang thương mùa lũ năm nào cũng diễn ra… Báo chí, truyền thông trong nước cho tới trên facebook mấy hôm nay tràn ngập thông tin, hình ảnh về cơn lũ kinh hoàng ở miền Trung. Không một người VN nào còn có tấm lòng với quê hương với đồng bào, mà không nhói buốt lòng khi nhìn những hình ảnh rớt nước mắt giữa cơn bão lũ: Hàng chục ngàn căn nhà chìm trong nước, bà con leo lên mái chờ nước rút, một người phụ nữ ngồi chông chênh trên mái nhà giữa biển nước mênh mông, những đứa trẻ thò đầu qua cái lỗ trổ trên mái nhà ngóng ra xa chờ sự hỗ trợ, một em bé vừa bơi vừa đội cái thau trên đầu trong đó có con chó ngồi run rẩy, một con bò được cột treo lên, thân chìm trong nước, chỉ còn cái đầu cái mõm nghếch lên thở, một đám tang chạy trong lũ… Cái nghèo cái khổ vốn đã đeo theo đồng bào miền Trung, lại thêm bão lũ, thiên tai liên miên…Không chỉ tài sản mất hết, hư hại hết, mà đã có ít nhất một chục người chết và hơn một chục người khác bị mất tích. Đó là mới ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, còn nữa, Nghệ An, còn nữa, bão lũ vẫn đang chuẩn bị đổ tới… Nhưng điều đáng nói hơn là bão lũ năm nào cũng xảy ra, nhưng từ trung ương tới địa phương cũng không tính toán được những cách thức làm sao để bà con bớt thiệt hại về tài sản, con người. Năm nào dân cũng phải tự lo, rồi sau đó chính quyền địa phương, có khi quân đội cũng tham gia, cứu hộ bằng sức người là chính, cộng với những phương tiện thuyền bè thô sơ, rồi các tờ báo, các tổ chức dân sự lại kêu gọi cứu giúp, người dân lại “lá rách đùm lá nát” gửi cho nhau những gói mì tôm, chai nước suối…Bao nhiêu năm rồi vẫn cứ là mì tôm, lương khô! Mỗi vùng nơi hay xảy ra bão lũ lẽ ra nên cấp hàng chục ngàn cái phao cứu sinh cho bà con trước mỗi mùa mưa; tìm cách xây ít nhất vài ba địa điểm lánh nạn tạm thời ở trên cao hoặc nhà cao tầng để sơ tán người và tài sản tạm vài ngày; đất nước có sông ngòi, biển từ Nam ra Bắc sao không có được một đội tàu cứu nạn, cứu trợ to, chuyên nghiệp để cứu trợ dễ dàng hơn; thậm chí, thay vì xây xây bao nhiêu cổng chào, tượng đài hoang phí sao không đầu tư cho một đội trực thăng chuyên cứu nạn, cứu trợ, vừa nhanh vừa hiệu quả v.v…Có vẻ như tài sản của dân chứ có phải của các ông đâu mà các ông đau, xót. Đã ngu, đã tham lại còn ác! Điều thứ hai, đáng phẫn nộ hơn là chuyện thủy điện xả lũ làm lũ chồng lũ, thiệt hại nặng nề hơn, năm nào cũng vậy. Như năm nay, một cái đập Hố Hô xả hết cỡ khiến người dân Hà Tĩnh không kịp trở tay, mới qua hai ngày đã có hàng chục ngàn căn nhà chìm trong nước, chưa kể người chết, người mất tích. Nào đã yên, lại rục rịch chuẩn bị xả lũ ở hồ Vực Mấu là hồ thủy lợi lớn nhất Nghệ An. Báo chí đưa tin, cũng chính đơn vị này, năm 2013 “hồ Vực Mấu đã từng mở tràn xả lũ gây nên trận lụt lịch sử, người dân vùng hạ lưu đã chìm trong biển nước. Hàng ngàn ngôi nhà bị ngập, tổng thiệt hại ước tính gần 800 tỷ đồng”. Và sau đó những người có trách nhiệm trả lời do không lường hết trước được hậu quả! (“Ngày 16/10, sẽ xả lũ ở hồ thủy lợi lớn nhất Nghệ An”, VOV, “Chúng tôi không lường hết hậu quả khi xả lũ”, bài đăng năm 2013 trên VNExpress)… Một cách trả lời vô cảm, cũng như năm nay, "Ông Vũ Mạnh Hùng, Giám đốc nhà máy thủy điện Hố Hô (công ty CP thuỷ điện Hồ Bốn) cho rằng, việc xả lũ tại Hương Khê là đúng quy trình." ("Thủy điện xả lũ nhấn chìm nhà dân, chủ tịch huyện nóng mặt", VietnamNet). “Đúng quy trình", một cụm từ xài quen trên cửa miệng các quan! Bao nhiêu tài sản tính mạng của dân, chả ai bồi thường một xu cũng chả ai bị sứt mẻ gì, ghế ai nấy tiếp tục ngồi! Dẹp mấy cái đập thủy điện đi, nhất là ở khu vực miền Trung, nước ta nắng gió thừa thãi, xách cặp theo học mấy nước châu Âu và Bắc Âu lấy điện từ năng lượng gió, năng lượng mặt trời đi. An toàn hơn thủy điện và điện hạt nhân nhiều. Nhưng do sự bất cập trong chính sách của nhà cầm quyền và một số lý do khác, rất nhiều dự án điện gió, điện mặt trời ở VN vẫn chưa triển khai được, hầu hết đang “bất động” hoặc nhà đầu tư bỏ cuộc. Trong khi đó thì những năm qua nhà cầm quyền VN lại hăm hở phá triển thủy điện, laa2 do các nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu thấp, lại rất biết cách “lại quả”, rộng rãi chi “tiền huê hồng”, hoặc do Bắc Kinh “hào phóng” cho vay với điều kiện phải là công ty Trung Cộng thực hiện… Vì tầm nhìn không quá lỗ mũi nhưng cái chính vì lòng tham vô đáy, nhà cầm quyền VN đã không hề nghĩ gì tới cái hại khi xây thủy điện trong một quốc gia có lượng mưa quá lớn, năm nào cũng có bão lũ nên năm nào cũng xảy ra chuyện xả lũ, lũ chồng lũ như vậy! Chưa kể lại còn lao vào những dự án điện hạt nhân với Tàu với Nga, lại càng thêm nhiều mối lo. Nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Đức đã chính thức dẹp bỏ các nhà máy điện hạt nhân. VN là một nước nhỏ, nghèo, các điều kiện đảm bảo an toàn, cứu trợ đã kém, mà lại đất chật, dân đông, rất không nên phát triển điện hạt nhân. Điện hạt nhân chỉ có thể tiền hảnh ở những quốc gia có trỉnh độ kỹ thuật cao, năng lực ứng phó, cứu trợ hữu hiệu, đất rộng, người thưa…Bài học nổ/rò rỉ nhà máy điện hạt nhân ở Nga, ở Nhật chưa đủ làm nhà cầm quyền VN quan tâm. Với họ, tiền là trên hết, tính mạng tài sản, tính mạng của dân thì là cái đinh gì! Thiên tai một, nhân tai mười. Nhìn lại chỉ mới từ đầu năm đến nay, bao nhiêu thảm họa đổ xuống đầu nhân dân. Hạn hán và ngập mặn ở đồn bằng sông Cửu Long khiến mùa màng mất trắng, bà con chỉ còn biế ngồi khóc trong câm lặng trên những cánh đồng khô nứt toác. Thảm họa biển chết, cá chết xảy ra đã hơn nửa năm, hàng chục ngàn hộ ngư dân lâm vào cảnh thất nghiệp hoặc gần thất nghiệp, hàng trăm ngàn người thuộc các lĩnh vực như du lịch, nhà hàng, xuất khẩu thủy hải sản…cũng bị điêu đứng theo, và những nguy cơ ô nhiễm môi trường, bệnh tật kéo dài hàng chục năm treo lơ lửng trên đầu người dân VN. Rồi hiện tượng cá chết lan rộng ra cả những vùng khác, cả những lồng bè nuôi cá, khiến người dân nơi này nơi khác phẫn nộ xuống đường biểu tình, mang theo những con cá chết trương sình, mắt mở trừng trừng đầy ám ảnh. Rồi lũ lụt ở miền Trung v.v… Nhưng ngẫm cho kỹ tất cả những tai họa trên, thiên tai chỉ là một phần, cái chính là nhân tai-do con người gây nên. Hạn hán, ngập mặn và cả cái chết dần dần của đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất nước là hậu quả từ việc sử dụng nguồn nước thiếu khoa học của các nước láng giềng cộng với việc Trung Quốc xây mấy cái đập thủy điện “khủng” ở đầu nguồn, điều này đã được các nhà khoa học, chuyên môn cảnh báo từ lâu nhưng nhà cầm quyền VN vẫn không chịu tính cách đối phó lâu dài. Bây giờ cứ xảy ra hạn hán, ngập mặn thì lại đi năn nỉ Trung Quốc xả bớt nước! Rồi nếu không phá rừng bừa bãi, xây đập thủy điện vô tội vạ thì lũ lụt đâu có kinh hoàng đến thế. Nếu không mở cửa cho Formosa vào xây nhà máy thép với những điều kiện hết sức lỏng lẻo thì thảm họa biển chết đâu diễn ra. Còn nữa, họa “bùn đỏ” bauxite Tây Nguyên, họa rò rỉ phóng xạ hạt nhân từ các nhà máy hạt nhân do Trung Cộng xây sát biên giới VN và chính VN cũng đang triền khai mấy nhả máy điện hạt nhân, cũng lại ở khu vực miền Trung… Nếu người Việt mình đừng giỏi chịu đựng đến thế… Bao nhiêu thảm họa xảy ra nhưng từ thái độ cho tới cách ứng phó của nhà cầm quyền như thế nào? Suốt thời gian qua trước hậu quả nghiêm trọng của thảm họa môi trường do Formosa gây nên, tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN làm gì? Sau khi ép được tụi Formosa nhả ra 500 triệu USD gọi là bồi thường, ngược lại, phía VN phải bồi hoàn tiền thuế còn lớn hơn cả số tiền đó, nhà cầm quyền tự cho như thế là xong. Dân đen ai biểu tình phản đối liền bị bắt giữ, hạch sách, nhà cầm quyền còn công khai đứng về phía Formosa, đưa quân đội, vũ khí, xây hàng rào bảo vệ Formosa, sẵn sàng quyết chiến với dân. Hội nghị Trung ương đảng lần thứ tư khai mạc. “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong phát biểu khai mạc hội nghị Trung ương lần thứ tư, sáng 9/10.” Thảo luận, ra nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ... Bởi vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Tổng Trọng và tập đoàn Ba Đình. ("Tổng bí thư: Ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, VNEconomy). Khi lũ lụt xảy ra tang thương ở miền Trung, tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN làm gì? Ông Thủ thì gửi "công điện hỏi thăm đồng bào", ra chỉ thị cho cấp dưới chống lũ, rồi ông và đám phó, đám đại biểu ngồi trong phòng máy lạnh êm ru nhắn tin ủng hộ người nghèo (“Thủ tướng nhắn tin ủng hộ người nghèo”, VNExpress); bà Chủ tịch Quốc hội thì chưng diện áo dài, mặt tươi hơn hớn đi dự khai mạc Festival áo dài tại Hà Nội (“Chủ tịch Quốc hội dự khai mạc Festival áo dài”, Tuổi Trẻ). Ông Chủ tịch lặn đâu không biết, ông Tổng Trọng còn đang bận kêu gọi dân cứu đảng, dân cứu đảng còn ai cứu dân? Rõ rồi, dân đen tự lo cứu nhau, trước giờ vẫn thế. Còn các quan đầu đẳng thì chờ khi nào dân chửi quá hoặc nước rút hết thì mới có một hai tay làm bộ xắn quần xuống vùng lũ ngó ngó chỉ tay năm ngón… Phải nói thật, quá rõ bản chất cái nhà nước này, thế nhưng tôi vẫn chưa bao giờ hết kinh ngạc về mức độ vô cảm, tàn ác của họ đối với dân với nước, cũng như chưa bao giờ thôi sửng sốt trước sức chịu đựng vô bờ bến của người VN! Nếu người dân Việt mình đừng giỏi chịu đựng đến thế... Song Chi (Blog RFA) Đăng bởi Ha Tran on Monday, October 17, 2016 | 17.10.16

×
×
  • Create New...