Jump to content

Làm thế nào để chống lại âm mưu thống trị trên biển của Trung Quốc?


xứ việt
 Share

Recommended Posts

Trong một tình thế đang xấu đi này, Mỹ phải thể hiện khả năng lãnh đạo. Để khuyến khích các nhà nước trong khu vực thể hiện rõ với Bắc Kinh rằng cách tiếp cận gia tăng sức mạnh của nước này là phản tác dụng, một loạt phản ứng kiên định và mạnh mẽ hơn của Mỹ là điều cần thiết.
 
Navy_2.jpg
 
 
Washington nên hành động ngay bây giờ để tránh phải triển khai lực lượng trong tương lai
 
Bắc Kinh đang bận rộn. Trung Quốc đã bắt đầu triển khai các tên lửa đất đối không (SAM) tiên tiến tới một hòn đảo đang tranh chấp trên Biển Đông. Các bệ phóng tên lửa và một hệ thống radar đã được lắp đặt trên đảo Woody (Phú Lâm) ở quần đảo Hoàng Sa, bị Trung Quốc chiếm từ tay chính quyền miền Nam Việt Nam vào năm 1974 và hiện vẫn là một nguồn bất đồng giữa hai nước. Để nhấn mạnh cam kết nắm giữ các hòn đảo này, Trung Quốc đã đánh chìm 3 tàu Việt Nam gần các hòn đảo vào năm 1988. 
 
Quần đảo Hoàng Sa nằm tách khỏi một nhóm đảo khác, quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc đã tiến hành xây dựng một số hòn đảo nhân tạo. Nhưng cả việc triển khai tên lửa lẫn xây dựng đảo đều là một phần trong một nỗ lực hợp nhất và lớn hơn của Trung Quốc để thiết lập sự thống trị trên Biển Đông.
 
Đặc biệt, Bắc Kinh tìm cách thiết lập quyền sở hữu đối với các khu vực đất đai được bao quanh bởi cái gọi là “đường 9 đoạn”, xuất hiện trên các bản đồ được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc vẽ ra vào những năm 1940. Các cấu trúc địa hình nằm trong khu vực này bao gồm quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, bãi Macclesfield và Đá Mischief (Đá Vành Khăn). Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các cấu trúc trên, trong khi Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam đều phản đối các tuyên bố này. (Đài Loan, với tư cách là Cộng hòa Trung Hoa, cũng đưa ra các tuyên bố chủ quyền tương đồng với của Bắc Kinh).
 
Điểm khác biệt giữa Trung Quốc và các bên tuyên bố chủ quyền khác là thái độ ngày càng quyết đoán của nước này, đi kèm với các tuyên bố ngày càng bành trướng. Trung Quốc thường xuyên lập luận rằng các nước khác cũng tiến hành cải tạo đất. Nhưng như Bộ Quốc phòng Mỹ lưu ý, các nỗ lực cải tạo đất của Trung Quốc vượt xa nỗ lực của tất cả các nước khác cộng lại: “Kể từ khi các nỗ lực cải tạo đất của Trung Quốc bắt đầu vào tháng 12/2013, Trung Quốc đã cải tạo hơn 2.900 mẫu Anh đất”. So sánh với khoảng 180 mẫu Anh của bốn bên yêu sách khác là Malaysia, Việt Nam, Philippines và Đài Loan, “trong vòng 20 tháng, Trung Quốc đã cải tạo diện tích đất nhiều gấp 17 lần so với của tất cả các bên tuyên bố chủ quyền khác cộng lại trong hơn 40 năm, chiếm khoảng 95% tổng diện tích đất được cải tạo”.
 
Ngoài ra, trên ít nhất 3 trong số các hòn đảo này, Trung Quốc đang xây dựng một loạt cơ sở hạ tầng khác nhau, bao gồm các đường băng dài cả dặm. Các đường băng kiểu này là đặc trưng cho các đường băng liên quan tới máy bay Concorde và Boeing 747-400ER (có khả năng thực hiện các chuyến bay thẳng qua Thái Bình Dương) và về căn bản dài hơn các đường băng cho máy bay chiến đấu Su-27.
 
Sự mở rộng đều đặn cơ sở hạ tầng cho sân bay này (mà sẽ tạo điều kiện cho việc triển khai máy bay chiến đấu tiên tiến, chẳng hạn như phi đội máy bay J-11/Su-27 của Trung Quốc) được bổ sung bởi quyết định rõ ràng là triển khai các SAM tiên tiến tới quần đảo Hoàng Sa, và nhiều khả năng quần đảo Trường Sa trong tương lai. Trung Quốc đang triển khai hệ thống tên lửa HQ-9, phiên bản Trung Quốc của hệ thống tên lửa S-300/SA-10 SAM tiên tiến của Nga. HQ-9 là một hệ thống rất tiên tiến và có năng lực – tương đương với hệ thống Patriot SAM của Mỹ. Việc triển khai hệ thống này tạo ra một khu vực nguy hiểm rộng 125 dặm quanh quần đảo Hoàng Sa và đánh dấu một sự gia tăng đáng kể trong quy mô và năng lực của các lực lượng Trung Quốc đóng tại khu vực.
 
Hiện thân của toàn bộ chính phủ 
 
Trung Quốc không chỉ dựa vào lực lượng quân đội để hỗ trợ các tuyên bố chủ quyền của mình. Bắc Kinh sở hữu đội tàu bảo vệ bờ biển lớn nhất thế giới và đang bổ sung các tàu 10.000 tấn (tương đương với nhiều tàu tuần dương thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai) vào đội tàu này. Tại các vùng biển tranh chấp, Trung Quốc dựa vào các tàu bảo vệ bờ biển, cũng như các tàu đánh cá “dân sự”, để quấy rối hoặc thậm chí gây hư hại cho tàu của các bên tuyên bố chủ quyền khác. Luôn thận trọng giữ lợi thế trong việc thao túng công luận, Trung Quốc có thể khẳng định, một cách chính xác, rằng họ không quân sự hóa tranh chấp, vì đây là các tàu thực thi pháp luật dân sự “thân trắng”.
 
Việc sử dụng các tàu thực thi pháp luật cũng gửi một thông điệp chính trị tinh tế rằng các lãnh thổ và vùng biển này quả thực là lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc; vì vậy chúng được tuần tra bởi lực lượng thực thi pháp luật dân sự chứ không phải lực lượng quân sự. Việc này được củng cố bởi các cơ chế hành chính. Khu vực rộng lớn trên Biển Đông được bao quanh bởi “đường 9 đoạn” (mới đây được sửa lại thành đường 10 đoạn) không chỉ bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà còn cả bãi Macclesfield và Đá Vành Khăn, cũng như nhóm đảo Pratas (hiện do Đài Loan kiểm soát). Để quản lý các khu vực tranh chấp này, năm 2012 Trung Quốc đã nâng cấp thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa trên đảo Woody lên thành phố cấp địa khu và trao cho quyền quản lý tất cả các đảo này. Điều thú vị là Tam Sa có nghĩa là “ba bãi cát”, và tên tiếng Trung cho các quần đảo được dịch ra là Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) và Trung Sa (Bãi Macclesfield và Đá Vành Khăn).
 
Năm 2014, Trung Quốc đưa ra một công cụ khác. Nước này đã triển khai giàn khoan nước sâu Hải Dương-981 tới vùng biển Việt Nam và tiến hành hoạt động khoan thăm dò tại đó. Cũng quan trọng không kém, Vương Nghi Lâm, Chủ tịch Tập đoàn dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC), công ty sở hữu giàn khoan Hải Dương-981, miêu tả giàn khoan này như là “lãnh thổ quốc gia di động”, một sự bóp méo mới về tuyên bố chủ quyền lãnh thổ. Ít chủ sở hữu tập đoàn tư nhân nào sẽ sẵn sàng mạo hiểm các khoản đầu tư trị giá hàng tỷ USD như Hải Dương-981 theo một cách thức như vậy.
 
Sự gia tăng đều đặn tính quyết đoán của Trung Quốc, được thực hiện bởi các tài sản dân sự mà được hỗ trợ bởi một bộ công cụ quân sự ngày càng có năng lực, rõ ràng nhằm mục tiêu thiết lập sự thống trị không có đối thủ đối với các vùng biển tranh chấp, cũng như các lãnh thổ địa hình. Các nguy cơ là rất cao. Các vùng biển này bao gồm một số tuyến đường vận tải tấp nập nhất trên thế giới, hàng năm chuyên chở lượng hàng hóa có giá trị khoảng 5.300 tỷ USD.
 
Đáng buồn thay, Mỹ đã không chú trọng đến vấn đề nhức nhối này. Mùa Hè năm nay, các cuộc chất vấn khó khăn tiết lộ rằng Mỹ chưa thực hiện một hoạt động tự do hàng hải (FONOP) quanh các đảo nhân tạo của Trung Quốc thuộc quần đảo Trường Sa trong 3 năm qua – ngay cả khi Mỹ mời Trung Quốc tham gia cuộc tập trận đa quốc gia Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC). Các hành động gần đây của Trung Quốc đã không vấp phải phản ứng trực tiếp nào từ Mỹ ngoài sự khiển trách của Ngoại trưởng John Kerry, người bày tỏ mong đợi có các cuộc thảo luận “rất nghiêm túc”. Washington dường như đang tập trung vào việc “xuống thang”, điều dường như là một thuật ngữ lịch sự cho sự nhượng bộ.
 
Ra tín hiệu với thế giới
 
Nhưng các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như không quan tâm đến việc xuống thang. Quả thực, việc triển khai các SAM tiên tiến hoàn toàn không giúp giảm căng thẳng, và Bắc Kinh chắc chắn biết điều này. Thay vì vậy, việc triển khai nhiều khả năng nhằm mục đích gửi 3 thông điệp then chốt. Thông điệp rõ ràng nhất là dành cho Việt Nam: Bắc Kinh không có ý định trao trả các hòn đảo này. Với tư cách là chủ sở hữu trước đây của quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam từ lâu đã thể hiện rằng nước này sẽ không từ bỏ các tuyên bố chủ quyền của mình đối với quần đảo này.
 
Trong những năm qua, Việt Nam đã mua hơn 30 máy bay chiến đấu SU-30MKK (tương đương với máy bay chiến đấu SU-30 và một số phiên bản của máy bay J-11 trong lực lượng không quân Trung Quốc), một số tàu hộ tống tên lửa lớp Molniya (mỗi tàu được trang bị 16 tên lửa chống tàu KH-35 tương đương với tên lửa Harpoon của Mỹ), và 6 tàu ngầm lớp Kilo. Việc Trung Quốc gia tăng năng lực của mình tại quần đảo Hoàng Sa rõ ràng nhằm mục tiêu ngăn chặn hành động của Việt Nam.
 
Thông điệp thứ hai là một tín hiệu gửi tới Washington: Những ngày tháng Mỹ tự do tiếp cận khu vực đang ngắn lại. Một hoặc hai khẩu đội tên lửa SAM tiên tiến tại quần đảo Hoàng Sa sẽ không làm thay đổi môi trường chiến lược. Nhưng điều này có thể thay đổi một khi các đường băng tại quần đảo Trường Sa được hoàn thành, và nó sẽ thay đổi hơn nữa nếu các cơ sở mới được xây dựng trên Đá Vành Khăn và bãi Macclesfield.
 
Nếu Trung Quốc tạo ra một mạng lưới phòng không hợp nhất – kết hợp nhiều khẩu đội tên lửa SAM tiên tiến (có thể bao gồm cả hệ thống S-400 mới mua từ Nga) với mức độ bao phủ chồng lấn, máy bay chiến đấu tiên tiến ở nhiều căn cứ không quân nằm rải rác trên khắp khu vực và các hệ thống phòng không trên tàu, chẳng hạn như các hệ thống trên tàu khu trục Mẫu 052D mới của họ, tất cả được liên kết với nhau bằng máy bay cảnh báo sớm trên không và radar đặt trên mặt đất – việc chống lại mạng lưới này sẽ trở thành một nhiệm vụ rất phức tạp. Đây sẽ không còn là vấn đề một vài cuộc tấn công xác định chính xác, mà đúng hơn sẽ liên quan tới một cuộc xung đột toàn diện. Các nỗ lực của Mỹ để khẳng định tự do hàng hải trong khi hoạt động bên trong một môi trường phòng không (và nhiều khả năng chống tàu) như vậy rõ ràng sẽ diễn ra trái với mong muốn của Trung Quốc.
 
Cuối cùng, sau chiến thắng của đảng Dân tiến (DPP) tại Đài Loan và phán quyết sắp được đưa ra của tòa trọng tài vào cuối mùa Hè năm nay, động thái của Bắc Kinh cũng nhằm ra tín hiệu về các ý đồ của Trung Quốc trong tương lai gần. Do “đường 9 đoạn” của Trung Quốc bắt nguồn từ các tài liệu và chính sách của chính quyền Trung Hoa Dân quốc, về lý thuyết, Đài Loan, vốn duy trì vị thế là Cộng hòa Trung Hoa, có thể làm suy yếu lập trường của Trung Quốc bằng cách xác định lại ý nghĩa của “đường 9 đoạn”. Hơn nữa, nhiều nhà quan sát cho rằng Trung Quốc sẽ thua trong vụ kiện phân xử giữa nước này và Philippines theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS). Việc Trung Quốc gia tăng quân sự hóa trên các đảo cho thấy rằng Bắc Kinh có ý đồ quyết giữ các hòn đảo này dưới sự kiểm soát của mình, cho dù Đài Loan và La Haye có thể nói gì đi chăng nữa.
 
Điều Mỹ nên làm
 
Trong một tình thế đang xấu đi này, Mỹ phải thể hiện khả năng lãnh đạo. Để khuyến khích các nhà nước trong khu vực thể hiện rõ với Bắc Kinh rằng cách tiếp cận gia tăng sức mạnh của nước này là phản tác dụng, một loạt phản ứng kiên định và mạnh mẽ hơn của Mỹ là điều cần thiết.
 
Triển khai các tàu của lực lượng Bảo vệ bờ biển Mỹ tới Tây Thái Bình Dương
 
Một điều rõ ràng là Trung Quốc đã xử lý thành công nhận thức của công chúng về tình hình, đặt các đối thủ của mình vào một tình thế khó khăn khi dựa vào các tàu bảo vệ bờ biển để khẳng định các quyền của mình, qua đó khẳng định rằng Trung Quốc không quân sự hóa tình hình. Washington không thể từ bỏ chiến trường công luận. Các con tàu “thân trắng” của Lực lượng Bảo vệ bờ biển Mỹ có thể và nên đóng một vai trò trung tâm. Cho neo đậu 1 hoặc 2 tàu bảo vệ bờ biển Mỹ tại, chẳng hạn như, Sasebo (Nhật Bản) hoặc bên cạnh các tàu chiến đấu ven biển tại Singapore sẽ cho phép Mỹ thường xuyên can dự với các nhà nước trong khu vực thông qua các hoạt động thực thi pháp luật dân sự chung, trong khi cũng cho phép thực hiện FONOP thông qua các tàu của Chính phủ Mỹ (không phải tàu quân sự).
 
Tạo điều kiện về năng lực trên biển
 
Việc Trung Quốc triển khai các SAM và các hoạt động xây dựng đảo của nước này thường được coi như là một sự ngạc nhiên đối với các nhà nước trong khu vực, vốn gặp khó khăn trong việc giám sát các vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn và đường bờ biển kéo dài hàng nghìn dặm của họ. Khi Mỹ thay thế P-3 Orion, máy bay tuần tra trên biển cũ của nước này, bằng máy bay P-8 Poseidon hiện đại hơn, nước này nên xem xét bán hoặc chuyển giao các máy bay này cho các nhà nước trong khu vực mà có thể sử dụng khả năng hoạt động lâu của chúng để giám sát nhiều vùng biển hơn. Một hành động thậm chí còn hữu ích hơn là giúp các nhà nước trong khu vực có được các vệ tinh cơ bản để duy trì năng lực quan sát liên tục trên không. Việt Nam đã ký kết hợp đồng với Nhật Bản mua một vệ tinh radar được trang bị radar có khẩu độ tổng hợp. Mỹ không nên để ITAR (Quy chế buôn bán vũ khí quốc tế) cản trở thương vụ này.
 
Mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực
 
Vấn đề ITAR chỉ ra một vấn đề lớn hơn, đó là một số chướng ngại pháp lý hiện đang cản trở các quan hệ gần gũi hơn. Vẫn còn những hạn chế cho tương tác của Mỹ với Việt Nam và Thái Lan chẳng hạn, do tình hình chính trị trong nước của các nước này. Mỹ nên trung thành với các nguyên tắc của mình, bao gồm sự hỗ trợ nhân quyền. Nhưng nước này hẳn cũng có thể hỗ trợ các mục tiêu chiến lược của mình, bao gồm việc duy trì ổn định khu vực tại một khu vực then chốt trên thế giới. Lôgích tương tự mà cho phép các hành động từ chối trong giao thiệp với Ai Cập và dẫn tới các cơ hội với Iran nên được áp dụng với các đồng minh của Mỹ như Thái Lan và các đối tác mới nổi như Việt Nam.
 
Duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ
 
Thực tế rằng Mỹ đình chỉ FONOP quanh quần đảo Trường Sa trong 3 năm, ngay cả khi Trung Quốc đang xây dựng các đảo nhân tạo với tốc độ rất nhanh, là điều không thể giải thích được. Đáng ra từ lâu Mỹ đã cần phải đưa FONOP thành một thành phần mang tính đều đặn hơn nhiều trong các hoạt động tác chiến của mình – và gia tăng sự hiện diện chung của các lực lượng Mỹ – trong khu vực. Từ việc quấy nhiễu tàu USNS Impeccable và tàu USNS Victorious cho tới hành động nguy hiểm mà suýt dẫn tới một vụ va chạm với tàu USS Cowpens, các hành động của Trung Quốc cho thấy họ coi Mỹ là bên can thiệp vào chuyện của người khác. Điều cần thiết là phải thể hiện rõ rằng Mỹ dù thế nào sẽ không bị hăm dọa phải từ bỏ các quyền hay bỏ rơi các đồng minh của mình.
 
Áp đặt phí tổn rõ ràng cho thái độ hung hăng của Trung Quốc
 
Lập trường ngày càng quyết đoán của Trung Quốc mới chỉ dẫn tới một vài hậu quả tiêu cực. Điều này cần phải thay đổi. Ở mức tối thiểu, Mỹ nên loại Trung Quốc khỏi RIMPAC 2016, nơi nước này sẽ có nhiều cơ hội thu thập thông tin tình báo không chỉ về Mỹ, mà còn về các đồng minh chủ chốt như Úc và Nhật Bản. (Trong năm 2014, Bắc Kinh đã cử một tàu do thám đi theo các tàu tham gia tập trận của họ và Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương lúc đó là Samuel Locklear đã chào đón nó!). Một động thái đáng kể hơn có thể là Mỹ thông qua công thức tương tự cho các đảo do Philippines nắm giữ thuộc quần đảo Trường Sa, như nước này đã làm với quần đảo Senkaku. Tức là, trong khi Mỹ nên tiếp tục không đưa ra lập trường liên quan tới bất cứ tuyên bố chủ quyền lãnh thổ nào, nước này có thể xem xét việc tuyên bố rằng Hiệp định phòng thủ chung Mỹ-Philippines sẽ được mở rộng rõ ràng tới bất cứ lãnh thổ nào nằm dưới sự kiểm soát hành chính của Philippines, bắt đầu vào một thời điểm nhất định được xác định. Một mặt, việc này thể hiện rõ rằng Mỹ sẽ không giúp Philippines mở rộng các tuyên bố chủ quyền của mình, và một điều cũng quan trọng không kém là Mỹ không có nghĩa vụ phải hỗ trợ cho bất cứ hành động phiêu lưu nào của Philippines. Đồng thời, việc này cũng sẽ ra tín hiệu rằng bất cứ hành động hung hăng nào chống lại các đảo do Philippines nắm giữ, chẳng hạn như Bãi Second Thomas (Bãi Cỏ Mây), sẽ làm dấy lên khả năng Mỹ có phản ứng. Việc này sẽ giúp ngăn chặn hành động hung hăng từ bất cứ bên nào, cho dù đó là, Malaysia, Việt Nam, Đài Loan hay Trung Quốc.
 
Những nguy cơ
 
Biển Đông giống như một bài kiểm tra tâm lý bằng dấu mực của Rorschach. Đối với Trung Quốc, đây là vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ – đây là các vấn đề cốt lõi, như nhà ngoại giao Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc từng nhận xét. Đây cũng là vấn đề gia tăng chiều sâu chiến lược, giữ các đối thủ tiềm tàng cách xa Trung Quốc. Đối với nhiều quốc gia Đông Nam Á, đây cũng là vấn đề chủ quyền: Chấp nhận các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc sẽ đồng nghĩa với việc nhường lại các vùng lãnh thổ rộng lớn, cùng với tất cả nguồn lương thực đi kèm và các tài nguyên khác. Việc này cũng đồng nghĩa với việc quay trở lại mối quan hệ nhà nước chư hầu từng thống trị phần lớn quan hệ Trung Quốc-châu Á trong nhiều thiên niên kỷ.
 
Đối với Mỹ, đây là vấn đề nguyên tắc và sức mạnh. Đây là vấn đề thực thi pháp luật và các quy chuẩn quốc tế, bao gồm tự do hàng hải và không cho phép các thay đổi đơn phương trong cách thức diễn giải các quy định này. Đồng thời, đây cũng là vấn đề sức mạnh, thể hiện cho bạn bè và đồng minh, nhưng cũng cả cho đối thủ và bên thứ ba uy tín của Mỹ, rằng sự hỗ trợ của Mỹ là có ý nghĩa. Đây không nhất thiết là vấn đề sử dụng vũ lực, mà là hành động ngay bây giờ để có thể tránh sử dụng vũ lực sau này.
 
Dean Cheng là nhà nghiên cứu về các vấn đề an ninh và chính trị Trung Quốc của Quỹ Nghiên cứu Heritage (Mỹ). Bài viết được đăng trên The National Interest.
 
Trần Quang (gt)
 
(Nghiên Cứu Biển Đông)
Link to comment
Share on other sites

Join the conversation

You can post now and register later. If you have an account, sign in now to post with your account.

Guest
Reply to this topic...

×   Pasted as rich text.   Paste as plain text instead

  Only 75 emoji are allowed.

×   Your link has been automatically embedded.   Display as a link instead

×   Your previous content has been restored.   Clear editor

×   You cannot paste images directly. Upload or insert images from URL.

 Share


×
×
  • Create New...