Jump to content

Võ Phiến - Hội An (1)


Recommended Posts

hoi-an-header.jpg
 
 

Trong bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất có một nhân vật có tài biết rõ từ nguyên của các địa danh. Tại vì sao quận nầy tên thế nầy? quận kia gọi thế kia? tên làng này gốc tích ở chữ gì mà ra? tên làng nọ do đâu mà có? v.v...  ham tìm những cái như vậy mà ông đâm ra có vẻ hơi lẩn thẩn. Tác giả vẽ ra nhân vật nọ hình như cũng có một chút dụng ý mỉa mai. Người đọc tình cờ gặp ông ta ở đoạn nào đó trong pho sách lớn, không khỏi thán phục nhưng cũng ngầm một chút thương hại, và nhất là mau cảm thấy chán, mong sớm lánh khỏi mặt ông ta để theo dõi cuộc yêu đương của cô Albertine núng na núng nính.
Thế rồi một hôm chợt nảy ý muốn tìm lại nhân vật nọ, lật đi lật lại bộ sách của Marcel Proust một lúc, mãi không gặp ông ta nữa. Rốt cuộc tôi nản lòng. Một con người thoạt trông vô vị như thế mà đến khi muốn tái ngộ cũng thành khó khăn. Tìm lại một nhân vật trong bộ tiểu thuyết bát ngát ấy cũng gần như đi tìm lại thời gian đã mất. Chao ôi! lẩn quẩn trong một pho sách chừng năm ba nghìn trang cuộc tao phùng đã trắc trở, trách gì ở ngoài cõi đời mênh mông giai nhân chẳng nan tái đắc.
Sở dĩ tôi bỗng nhớ đến mà mến cái biệt tài của nhân vật trí thức nọ là bởi vì gần đây chiến tranh, sau khi đã gây ra chán chê đủ mọi tai ương thảm họa, mọi thiệt hại về người về của trên xứ sở, nó lại có sáng kiến toan làm nẩy ra một vài hoang mang về danh từ đất đai, nó làm cho một số làng mạc núi sông bỗng nhiên ngẩn ra không biết mình tên gì. Cái đèo đã đón nhận số lượng bom khủng khiếp nhất từ sau đệ nhị thế chiến tới nay do phi cơ B.52 trút xuống cách đây mấy tháng, nó là đèo Mụ Già, hay Mụ Gia hay Mộ Giạ? Cái mũi đất nơi ta vừa tóm được một số khí giới do Bắc Việt tải vào, nơi đó là Batangan, là Ba tăng ghềnh, hay là Ba làng an ? Mùa mưa năm ngoái, nhiều báo đã loan tin trận đánh ác liệt nhất ở Cao nguyên xảy ra tại Đức-Cơ; rốt cuộc Đức Cơ đã thực đúng là tên nó chăng ?
Gọi cho đúng những địa danh ấy đã là khó, nói gì đến chuyện truy tầm nguồn gốc cội rễ của chúng. Đọc qua một loạt địa danh, người ta thấy ngay đất nước nầy từng trải qua nhiều nỗi long đong. Hà Nội, Hải Phòng, rồi Lào Kay, Mông Cáy, Lũng Phầy, rồi nào là Ban Mê Thuột, Dak Sut, La Drang, nào là Trà Ôn, Tắc Biển, Sóc Trăng, Sa Đéc, nào là Varella, Padaran, Cap Saint Jacques, v.v... Nhiều giống người đã kế tiếp nhau đến sinh sống tại đây, đã để lại đây vết tích sâu đậm, đã tự tiện dùng ngôn ngữ họ đặt tên cho đất đai xứ này, cho nên địa danh Việt Nam mang đủ thứ tiếng Trung Hoa, Thổ, Mán, Mường, Rhadé, Chàm, Miên, Pháp v.v...
Về việc truy tầm nguồn gốc, nguyên một cái tên thủ đô nước Việt Nam Cọng Hòa này, tức cái tên Sài Gòn, đã đủ làm vất vả một người uyên bác như ông Vương Hồng Sển. Đi tới những miền đất ít quan trọng hơn chắc là ít ai biết nổi ý nghĩa và nguyên lai, họa chăng là phải chờ tới khi tóm được nhân vật huyền hoặc nọ của Marcel Proust.
Vậy mà giữa những rắc rối của địa danh nước Việt tên tuổi của Đà Nẵng với Hội An vẫn cứ là một trường hợp độc đáo đáng kể.
Hội An còn tên là Faifoo, và Đà Nẵng còn tên là Tourane, sao vậy? Một tên Tây kèm với một tên ta mà tên nầy không phải là phiên âm của tên kia. Nghe có vẻ như là những người Việt loại Henriette Phạm, Jacqueline Tuyết Lê, v.v...
Người Pháp đến nước nầy muộn màng. Khi họ đến tất cả những nơi trọng yếu phồn hoa, tất cả các miền đồng bằng đông đúc, đã có tên tuổi rành mạch cả rồi. Chỉ còn dành cho họ khám phá những đỉnh núi, những mũi đất, những đèo cao, những hòn cù lao hẻo lánh. Bởi vậy có những Padaran, Batangan, Poulo nầy, Poulo nọ v.v...
Thực ra, hầu hết những nơi ấy, dù là hẻo lánh bậc nào, cũng được dân địa phương đặt tên rồi, nhưng tên ấy không được phổ biến, ít ai biết đến. Người Pháp chỉ làm công việc phiên âm. Sau này hình thức phiên âm của Pháp được đưa lên giấy tờ, sách vở, báo chí, được phổ biến rộng rãi, khiến người trong nước quên mất cái tên nguyên thủy.
Hội An với Đà Nẵng không phải là những miền đèo heo hút gió, không phải là hải đảo lạc loài giữa bể khơi. Trái lại, đó là tỉnh lỵ một tỉnh trước kia lớn vào hàng thứ nhì trong toàn quốc, đó là thị trấn đông đảo phồn thịnh nhất miền Trung hiện nay. Cả hai nằm bên nhau, ở vào miền có tiếng là sớm phát triển về văn học, từng sản xuất những bậc sĩ phu lừng lẫy trong lịch sử cận đại của nước nhà. Như vậy, làm sao đến nỗi cả hai thành phố lớn của Quảng Nam đều phải mang tên Tây ? Tên tuổi cả hai chắc chắn là đã có từ trước ; làm sao đến nỗi người Tây còn chen vào đặt tên ? Trường hợp ấy không hề xảy đến cho những thành phố, những tỉnh lỵ khác trong toàn quốc Việt Nam.
Một chiều nằm trên một chiếc ghế bố cho thuê mỗi giờ mười đồng dọc bờ Hàn giang, nhìn quanh quất về những miền lân cận với các tánh danh đẹp đẽ: Mỹ Khê, Đông Giang, Tiên Sa..., tôi nghĩ đến chuyện oái oăm của thành phố mang cái tên kỳ cục: Tourane. Kỳ cục và thiếu nghĩa đến cả cái tên Việt của nó là Đà Nẵng.
*
Tourane, ông Lê văn Hòe trong cuốn “Tm nguyên tự điển giải là do chữ Thuộc Giản mà ra. Chuyện ấy với chuyện Củi gòn của thủ đô (Sài Gòn) chỉ để các nhà học giả nói với nhau, ngày nay dân địa phương không còn biết đâu tới Thuộc Giản nữa.
Còn Faifoo, nó vẫn có tên là Phố, Phố Hội; một người địa phương bảo rằng xưa kia những người Hòa Lan đến giao thương, bước chân lên bờ hỏi: “Đây có phải Phố.” Dân chúng trả lời: “Phải, Phố.” Thế là phải Phố thành Faifoo.
Thôi thì Phải Phố với Thuộc Giản cùng ly kỳ như nhau, không phải là những điều mình có thể suy nghiệm nổi, tôi quay về với những hình ảnh quen thuộc thân yêu mà mình vẫn lưu giữ, liên hệ đến miền đất Quảng nầy.
Con đường từ Đà Nẵng đi Hội An, vừa ra khỏi thành phố một cái là phủ rợp bóng tre. Tre hai bên đường xanh tốt giao đầu lại với nhau làm thành một vòng cung, một cái hầm xanh rập rờn linh động mát rượi che kín mặt đường.
Dọc đường người ta vẫn thường có trồng cây, ở đâu cũng vậy, nhưng có điều hình như không hề thấy cơ quan công chánh ở đâu lại có ý kiến trồng cây tre ven đường. Chắc chắn tại đây cũng vậy, vòm tre ấy không phải là công trình của công chánh. Cây tre không đứng bên đường theo kế hoạch mở mang đường sá lối Tây phương. Nó không hay rũ bóng xuống mặt đường nhựa. Thế nhưng ở những con đường chạy trong làng, trong xóm, những con đường cổ truyền của dân tộc bao giờ cũng có tre.
Bởi vậy, đoạn đường Đà Nẵng về Hội An làm người ta quên hết những tên Tây kỳ cục của nó, mà chỉ gợi nhớ đến cu gáy với bướm vàng trong ca dao, đến con “đường thơm” :
“Đường trong làng hoa dại với mùi rơm
Người cùng ta đi dạo giữa đường thơm
Lòng dắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng”...
Bóng phượng, phải, còn có bóng phượng nữa. Đà Nẵng có rất nhiều cây phượng.
Mỗi thành phố có một thứ cây tiêu biểu. Hay ít ra có một loại trong nhiều loại cây ở mỗi thành phố đặc biệt lưu lại nơi du khách nhiều kỷ niệm hơn các loại cây khác... Sài Gòn với cây dầu. Những cây dầu trước sân phi cảng Tân Sơn Nhất, trước ngày nhà ga bị mìn, lối vào bị cấm, chiều chiều những người muốn thoát một lúc cái ồn ào của đô thị đông đúc tìm lên đây chơi, thỉnh thoảng ngừng chân dạo, ngước nhìn lên những chùm trái dầu non lủng lẳng trên tàn cây. Có thứ xanh, có thứ đỏ. Thứ xanh mơn mởn một màu xanh non, rung rinh, chập chờn trong gió như những con vật thật xinh. Thứ đỏ thì cứ có một tia nắng chiều chiếu vào là ửng lên như căng máu hồng. Trái dầu bất kỳ là xanh hay đỏ đều khiến nghĩ đến một loài sinh vật. Cây dầu ở những con đường Lê Lợi, Gia Long, Lê Thánh Tôn, v.v... ở những chỗ nhà cửa san sát, bán buôn tấp nập rộn ràng: mỗi lần có cơn gió thổi qua, trái dầu khô rụng lao xao, xoay tít trong gió, bay tơi bời, và như thế một doanh nhân đầu óc rối beng vì những con tính đang bước hấp tấp từ cửa tiệm nọ qua cửa hiệu kia bỗng nghe có cái gì đáp lên mái tóc, đưa tay lên và gỡ được một trái dầu. Ông ta rất có thể nở được một nụ cười, đầu óc căng thẳng của ông ta có thể dịu xuống, một chút gì rất có thể hẩng lên trong tâm hồn bận bịu của ông, vì một kỷ niệm ấu thời vừa được đánh thức dậy, kỷ niệm của những ngày ông ta còn là đứa trẻ vô tư lự ngày ngày chạy nhảy rong chơi ở ven rừng ven suối nơi thôn dã. Và cũng như thế một cậu thanh niên tóc dài phủ ót phủ trán kiểu Beatles, sinh ra ở đô thị, từ bé đến lớn ăn hột cơm mà không hề trông thấy hột lúa, đang đùa giỡn với bạn bè trên hè phố bỗng rờ lên cổ áo và nhặt được một trái dầu khô, rất có thể cậu ta bỗng nẩy ra ít nhiều thiện cảm với thiên nhiên, cái thiên nhiên biết tự giới thiệu một cách tinh nghịch... Rồi lại còn những hôm trời Sài Gòn bất chợt đổ cơn mưa lớn, nước trút xối xả, ngập khắp các đường, nhìn ra: tầm mắt không vượt quá nổi một dãy phố bên kia đường, đây đó toàn một màu trắng đục, trong cõi vô minh mịt mù ấy những chiếc xe lùi lũi chạy trốn, không trông thấy rõ chúng ở đâu, chỉ nghe tiếng còi bí bo gọi nhau từ góc phố nọ đến đầu đường kia, chúng gọi nhau, đáp nhau liên hồi, tội nghiệp như sợ lạc mất, những hôm như thế cái cảnh hàng ức hàng vạn trái dầu khô bị nước cuốn lềnh bềnh xô gấp xuống các lỗ cống càng làm cho cơn mưa ngắn ngủi của Sài Gòn thêm vẻ phũ phàng. Trái lại, những buổi đẹp trời, những buổi sáng mát mẻ, đang ngồi trong xe lướt trên đường, bỗng nghe có tiếng một vật gì chạm nhẹ, gõ long cong trên mui sắt; tiếng khua sao mà khiêm tốn, mà nhã nhặn, khiến cho cơ khí ngỡ ngàng; từ thuở chào đời cái vật bằng sắt thép này chưa bao giờ biết đến những động chạm dịu dàng như thế, và tiếng khua ấy làm cho người bị giam bịt bùng trong khung sắt bỗng hưởng được chút thanh thoát nhờ sự nhắc nhở, chiếu cố của thiên nhiên...
Chưa hết! Những kỷ niệm của cây dầu, sao mà lan man quá! Những ngày tháng 11-1960, tháng 11-1963, lá dầu, trái dầu nằm la liệt, chồng chất lên nhau trên các con đường Công Lý, Pasteur, Thống Nhất, nằm đầy công viên Tao Đàn. Dân chúng thủ đô, từng giờ từng phút, mãi theo dõi đại sự, còn ai nghĩ tới chuyện hốt lá cây; xung quanh dinh Độc Lập lính dàn súng đầy dẫy, còn ai chen vào hốt lá cây được. Cho nên khắp đường lá dầu, lá me, lá giá tị... thứ thì rơi bay lả tả, tơi bời, thứ thì nằm tràn lan. Cỏ cây, đường sá cũng bày một cảnh “ngổn ngang thế sự”. Người dân thủ đô, trong những ngày lịch sử, chân đạp trên lá dầu khô xào xạc mà lòng càng nôn nao...
Ở Đà Lạt, có lẽ cây cối không gợi nhớ một biến cố chính trị nào. Thành phố yên tĩnh quá, ít xao động quá. Cây cỏ thì nhắc nhở hội hè. Anh đào là lễ Giáng Sinh, là Tết. Đà Lạt thì vô cùng phong phú về thảo mộc, nhưng anh đào vẫn là tiêu biểu, đến mùa của nó anh đào vẫn thắng lợi rõ rệt trên khắp thành phố.
Trái vời Đà Lạt, Vũng Tàu cũng là một thành phố của du khách mà nó không có chút gì lòe loẹt rực rỡ. Đi Vũng Tàu, về mặt thảo mộc, người ta nhớ tới những cây bàng; bàng ở bãi Trước, bãi Sau, bãi Dứa, bãi Dâu, bãi Sò, bãi Ô quắn, bãi Hàng bàng, ở trên khắp các nẻo đường phố, những cây bàng già xòe những cái tàn vĩ đại, khỏe mạnh, đương đầu với gió bể bao la. Về bông hoa, cây bàng chỉ có những giải nhỏ lòng thòng màu xanh lạt, rụng đổ trên lề đường và trên các mái ngói âm dương cũ kỹ đen màu một thứ bụi li ti lâu ngày thành bẩn nhớp. Chỉ có vậy, mái ngói xưa cũ với cây già sù sì mà Vũng Tàu đòi thu hút du khách đó. Nó thu hút người ta bằng những thứ như vậy.
Sao nó lại không có sáng kiến quyến rũ người ta bằng cây có trái trồng ngoài đường như Huế? Nhiều con đường ở Huế thật ngon lành. Dọc mép công lộ các nơi, bất quá chỉ có ít cây keo tây hay cây me gọi là có trái ăn được. Không ai muốn đưa các loại trái quí ra giữa đường mà khiêu khích thiên hạ. Một đoàn quân có kỷ luật dưới sự chì huy của một danh tướng mà đi ngang qua vườn mơ còn nhốn nháo thay, huống hồ là cái quần chúng phức tạp của đô thị bây giờ. Vậy mà ở Huế thì xưa nay người ta vẫn vững tâm tin tưởng ở cái nết na đạo đức của khách bộ hành: ngoài đường, nhất là đường trong thành, san sát những cây nhãn lồng xanh um. Nhãn Huế là thứ nhãn thơm ngon, ngọt thanh, mỏng vỏ, là một thứ trái quí. Nó đứng dọc lề đường để chứng minh lòng tin cậy ở nết tốt của người dân một thành phố quí phái. Nó đứng đầy đường phố cùng với cái linh hồn sôi nổi của nó là... đàn ve. Ôi chao là ve! mỗi năm tới mùa nhãn chín trong lòng, cũng là mùa nóng nực, gió sông không thổi lọt được vào trong thành, nắng bừng bừng như thiêu như đốt, thì hàng ức triệu con ve nổi lên một phản kháng tập thể vang lừng suốt ngày nọ qua ngày kia. Chắc chắn cái tiếng ve dóng dả hỗn hào ấy đã làm nôn nao ruột gan cụ Đinh Nhật Thận ghê gớm, cho nên suốt bài “Thu dạ lữ hoài ngâm” nước sông Hương với chuông chùa Diệu Đế chỉ được nhắc đến một lần, nhiều cảnh khác bị bỏ qua, mà tiếng ve thì cụ nhắc đi nhắc lại mãi:
“ ... Nhi kim cúc dĩ hàm anh,
Liễu âm đình ngoại hàn minh lưu thiền.
... Lãm y bộ bộ khang cù
Thiền minh dương liễu đái sầu mi khan.”
Nhưng sao “thiền” lại cứ đi liền với “liễu”? Cụ tìm đâu ra liễu ở xứ Huế mà nhiều quá vậy? Giá cụ bỏ liễu đi mà nói tới các cây nhãn lồng trong vòng thành thì có phải ngày nay kẻ hậu sinh được một phen đắc ý biết bao nhiêu !
Dầu Sài Gòn, anh đào Đà Lạt, bàng Vũng Tàu... và phượng ở Đà Nẵng. Phượng ở đây không đặc biệt nhiều lắm đâu, nhưng màu đỏ hân hoan của nó làm cho trời xanh sông xanh như mở rộng thêm ra, như rạng rỡ thêm lên. Nhất là phượng ở đó lại gia nhập với tre để cùng nhau làm thơ:
“Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông, màn nhẹ vướng chân lâu.”
 
Giữa khung cảnh như thế tưởng không thể làm gì khác hơn là... tình tự:
 
“Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự.”
Hoian-Old-Quarter.jpg
Hội An
 
Ủa! Tôi nói gì vậy? Thật không còn gì nhảm nhí hơn. Về Đà Nẵng với Hội An sau những tháng tranh đấu vừa qua, sau những ngày sôi nổi ở các chùa Tân Ninh, Phổ Đà, ở Tam Tòa, Thanh Bồ v.v... mà nói cu, nói bướm, nói tình tự! Thế mới biết lướt qua một thành phố mà căn cứ vào mấy hàng cây để xét đoán bâng quơ như xem tướng đoán người không khỏi có ngày thầy tướng lâm nguy.
Trong ba bốn năm qua, rồi lại trong ba bốn tháng vừa qua, miền Trung — nhất là cái miền Trung từ Quảng Nam ra đến Quảng Trị — đã làm cho cả nước phải ngán. Cái thứ sinh lực gì tiềm tàng trong một vùng nghèo cực xác xơ mà ghê gớm như vậy? Khổ sở, ở đây cũng chịu khổ sở không thua bất cứ nơi nào trên đất nước; chết chóc, ở đây đã và đang lâm cảnh chết chóc kéo dài liên miên đến nỗi dư luận nhiều nước bạn sốt sắng ở Tây phương cứ lo rằng đã đến lúc dân Việt Nam chán nản rồi, mỏi mệt rồi, chỉ chực buông tay phó mặc cho thời thế, những nước bạn ấy lo rằng rồi tất cả cái sức nặng của cuộc chiến đấu gian nan sẽ trút đè lên dân chúng họ. Nhưng ở đâu mỏi mệt chứ xứ Quảng này không hề thấy mỏi mệt. Động một tí là họ vùng dậy. Bất bình một chút là họ đứng lên.
 
Nói như vậy không có nghĩa là lúc bình thời thì họ nằm yên. Không có lúc nào họ nằm, nhất là nằm yên. Lúc nào họ cũng thao thức. Bao giờ cũng có vấn đề một tí tự do cần đòi thêm, một nếp dân chủ cần chỉnh đốn, một khát vọng quần chúng cần được “nói lên”, một quyền lợi cần phải tranh đấu. v.v... Và thấy cần, là họ làm liền.
Trong những tháng sôi nổi hồi đầu mùa hạ năm nay ở miền Trung, có những ký giả từ Sài gòn ra thấy tự nhiên ngài ngại trước các cô gái xứ Quảng và xứ Huế: trông thì hiền lành mà sao họ dữ dằn thế.
Thì vậy đó, những tâm hồn cương quyết đâu có gì để kiêng kỵ những gương mặt khả ái hiền hậu? Không cần phải đi ra Trung; cứ chung quanh ta, ở ngay tại Sài gòn này, ngày nay vẫn gặp những anh bạn người Quảng rất hòa nhã, rất hiền, rất dl thương; nhưng một ngọn lửa thiêng lúc nào cũng nung nấu trong lòng họ, một mối bất bình âm ì lúc nào cũng đốt nóng tâm can họ.
Tôi có anh bạn hiền xứ Quảng, người nhỏ vóc, yếu đuối. Trước, vừa biết anh thì anh hãy còn làm nghề dạy học. Anh là một nhà giáo xuất sắc. Anh thuộc văn thơ không biết bao nhiêu mà kể, có thể ngồi nghe anh đọc suốt tử giờ nọ qua giờ kia, anh thuộc cả thơ Đường lẫn thơ Pháp: ai cũng tưởng con người ấy phải mềm đi vì văn chương. Mà về mặt thể xác, anh có bạc nhược thật, thích nằm lười mãi trên giường hơn là đi đây đi đó. Giường anh nằm chiếu chăn lộn xộn bừa bãi. Có độ tôi lui tới căn gác trọ cùa anh, suốt tháng, bất cứ lúc nào cũng thấy mùng buông kín giường. Hé một cánh cửa sổ, gọi lớn, lá màn rung rinh tức là anh có nhà và sắp vén mùng thò đầu ra, thấy im tức là anh đi vắng. Anh vẫn sống độc thân mà lành. Lúc nào vui anh vui em, nhà giáo cũng ứng khẩu nói vài câu nghe mạnh dạn đáo để, nếu có cô nào ở đó thì tha hò đỏ mặt, nhưng nói rồi bỏ qua, chảng bao giờ anh dấn thân vào một vụ gì tai tiếng.
Một anh bạn hiền như thế, sau 1963 bỗng một hôm tôi gặp anh ở Sài gòn, hỏi: “Vào đây hồi nào ? Ở chơi được lâu mau?” — “Có lẽ còn ở lâu.” — “Sao vậy? Giữa niên khóa mà.” — “Thôi dạy ngoài ấy rồi.” — “Thế vào dạy trong nầy?” — “Không, độ này viết báo.” — “Ai xúi cậu đổi nghề vậy?” — “Anh em. Anh em thấy lúc nầy cần thì gọi mình vào.”
“Anh em”: cái bí mật là ở đó. Một người chuyên dạy học hai mươi năm, thành nghề thành nghiệp rồi, bỗng dưng bảo bỏ học trò đi vào Sài gòn vác bút xông liền vào tòa báo; quyết định một chuyện phiêu lưu như thế là “anh em”. Có khi anh bạn gọi là “anh em”. Có khi anh gọi rõ hân là “anh em x.x.” Tuy vậy cũng vẫn là một cách gọi tắt. x.x. chỉ là cách gọi tắt, kỳ thực cái đoàn thể chính trị ấy tên nó dài đến năm chữ. Gọi đủ năm chữ thì nghe trọng vọng, đứng đắn, lối đó dành cho người viết sử, viết diễn văn; còn đảng viên thì gọi tắt bằng hai chữ, nghe nó thân mật. Như là người nhà xưng hô với nhau.
Làm báo với “anh em” thì thảo luận về đường lối, về chương trình, về chính sách. v.v... rất nhiều, còn về nhuận bút tôi ít nghe anh bạn đề cập đến. Vả lại hình như bài vở của anh bạn, những bài mà ngày đêm anh hì hục miệt mài viết ngay trên giường, ngay trong đống chăn nhàu nhò của anh, những bài vở ấy, tòa soạn cũng không mấy vội vàng đăng tải. Về điều đó, không có bên nào đáng trách: anh bạn là người mô phạm, chuyên giảng nghĩa lý văn chương, đã có bao giờ tỏ ra sở trường viết báo đâu, nhất là loại báo hàng ngày. Nhưng như vậy anh sống bằng cách gì đây?
Tất cả những sự trục trặc ấy chưa kịp giải quyết thì tờ báo nọ bị đình bản. Ôi, cái việc một tờ báo nó tự sinh rồi nó tự diệt ở giữa đô thành này, trong quãng thời kỳ náo nhiệt này, người đời ai buồn để ý đến. Càng không đáng để ý cái sự việc nhỏ nhặt có những cuộc đời gặp chỗ lỡ dở như trường hợp của anh bạn. Trở lại ngoài Trung thì chỗ dạy đã mất rồi mà kiếm được chỗ dạy ở Sài Gòn này cũng khó. Tìm đến các tờ báo khác ư? Ngoài một số “anh em”, đã có ai chịu nhận anh bạn là ký giả đâu?
Thỉnh thoảng, có hôm tôi gặp anh bạn ở khoảng chợ lộ thiên đường Hàm Nghi, hoặc đứng ngoẻo đằu ngắm nghía một con chó con mũm mĩm xích bên gốc cây, hoặc vắt tay sau lưng xem xét rất kỹ càng đàn dơi toòng teng trong lồng. Có hôm khác lại gặp anh bạn chen lấn ở chỗ chợ trời đường Tôn Thất Thiệp, ngừng lại chỗ này hỏi thăm về một thứ bút Nhật Bản kiểu mới, ngồi xuống chỗ kia nghe thử chiếc máy ghi âm tí hon đang phát trả lại một câu nói của một ông khách hàng vừa mới thu vào băng. Anh sống như một người thừa rất nhiều thì giờ. Hỏi thăm, thì quả thực anh bạn có thừa thì giờ: lâu lâu đoàn thể có cuộc hội thảo, có sinh hoạt nội bộ quan trọng, có huấn luyện đoản kỳ, anh mới phải lo soạn những bài thuyết trình: “Vấn đề tổ chức quần chúng”, “Sinh hoạt dân chủ trong quốc gia”. “Chính đảng và dân chủ” v.v... Ngoài ra, anh được tự do, tha hồ miệt mài với sự say mê của mình.
Sự say mê ấy, người dân xứ Quảng, từ thế hệ nọ đến thế hệ kia, tiếp chuyển cho nhau, không ngừng. Tôi được biết một chính khách ngày nay trên mái tóc màu trắng đã lẫn màu đen, trong thời Pháp thuộc tửng lần lượt nằm đủ các nhà lao Kontum, Ban Mê Thuột, Lao Bảo v.v..., ông đi đẵn cây đốn gỗ trong rừng dưới mắt bọn lính canh tù, ông bị nhốt xà lim, bên mình kè kè một ống tre để tiểu tiện đại tiện. Tay bị còng mà phải mò mẫm làm công việc phóng uế vào những dụng cụ đặc biệt, như vậy không phải dễ. Bây giờ, kể chuyện lại cho con cháu nghe, ông lấy bút vẽ các ống tre, vừa vẽ vừa giảng. Mỗi lần kể mỗi lần vẽ, các bức họa ống tre tích tụ lâu ngày hóa nhiều, tản mác đây đó, thỉnh thoảng bị bắt gặp ở những chỗ thực bất ngờ. Ông suýt nổi tiếng về các bức vẽ.
Lại một người bạn có ông nội già tám mươi tuổi. Nhiều lần tới nhà bạn, tôi để ý thấy ông cụ có một vẻ gì là lạ. Ông già tướng mạo đẹp đẽ, râu bạc như cước, da dẻ hồng hào, phong thái đường hoàng, khả kính, vậy mà khi nghe bọn trẻ đề cập tới chuyện thời cuộc thì ông cụ đâm ra lúng túng: mắt không gian, nhưng nửa có vẻ tham dự nửa có vẻ lẩn đi, tai nửa đón nửa lờ, nét mặt phớt lạnh một cách dối trá. Một hôm, giữa lúc anh em đang nói về sự chạy chọt của một chính khách, bỗng nghe văng ra một tiếng càu nhàu. Ngoảnh lại, trông thấy ông cụ đã nín thinh, nhưng mặt đỏ gay. Lát sau, cơn giận nguôi xuống, ông cụ bối rối, vội vã lui vào nhà trong.
Thì ra là thế. Ông cụ là người Khổng học, muốn giữ đạo trung dung, muốn giữ lòng yên tịnh, tránh mọi quá khích, nhưng vận mệnh nước nhà càng ngày càng làm ông cụ lo lắng sốt ruột, các chính khách làm ông cụ bực mình, ý kiến con cháu trong nhà phân tán, lắm khi ngược với ý ông. Ông cụ cố gắng nín lặng, không muốn phát biểu để tránh sự xung đột. Dồn nén làm khổ sở những ngày tàn của một người quá thiết tha.
Thỉnh thoảng, ông cụ bị vấp một lỗi lầm: nghe nhắc đến một cuộc biểu tình nào đó, một tính danh chính khách, tướng tá nào đó, thình lình ông cụ buột miệng chửi thề, mạt sát nặng nề. Rồi ngay sau đó, ông cụ hối hận, xấu hổ về thái độ thô tục của mình. Thực là thảm hại, đáng thương. Sự im lặng lâu ngày tích tụ nỗi bất bình nơi ông, như nọc độc của con rắn lâu ngày ở bộng. Bị kích thích rắn phóng nọc ra. Rắn thì không sao, còn ở ông cụ thì vẻ ân hận thật là tội nghiệp hết sức.
Mấy năm gần đây, tình hình rối quá, kích động ông cụ nhiều quá, sự cố gắng làm ông cụ có vẻ khác thường, kỳ cục, gần như bệnh hoạn, lẩm cẩm. Con cháu khó chịu, thấy ông cụ đổi tính.
Sau, một thằng cháu ngã vào nước sôi, bỏng chân nằm liệt. Ông cụ ngày ngày cúi xuống đứa cháu, dồn hết sự chú ý xuống nó; nhờ đó, ông khuây lảng thời thế, lấy lại sự quân bình trong tâm hồn.
Trong các tháng tư tháng năm dương lịch vừa qua, tình hình ở ngoài Trung thì rối, mà sự lưu thông thì bị hạn chế, số ký giả ra Trung lấy tin tức về rất ít; cho nên người dân ở thủ đô nhìn về ngoài ấy thấy như mớ bòng bong, lắm lúc không còn hiểu ra sao được nữa. Các tập thể tôn giáo cũng như chính trị đều phân hóa lung tung, chi nầy, hệ nọ, phái kia mâu thuẫn nhau; hôm nay có kẻ tuyên bố, hôm sau lại có kẻ khác đính chính; vừa nghe nói Việt Quốc chống phe tranh đấu, lại nghe nói Việt Quốc tán thành tranh đấu; ngày trước được tin một cán bộ cao cấp Quốc Dân Đảng bị ám sát, ngày sau lại có tin hung thủ cũng là đảng viên Quốc Dân Đảng v.v... Băn khoăn quá sức, bèn bước sang nhà người bạn ở cùng một ngỏ hẽm định nói chuyện bâng quơ cho khuây khỏa; bạn là một người Quảng khiêm tốn, nhu mì, ít nói, từ lâu ngoài việc đi làm đều đều hàng ngày hình như chỉ để lộ một mối bận tâm là chọn người bạn trăm năm mà mãi chưa được. Thường lệ đến nhà chơi hay gặp anh bạn ngồi buồn buồn lần tay nặn mụn trên má. Bất ngờ hôm ấy đề cập tới chuyện chánh trị, hỏi tới đâu anh bạn biết vanh vách tới đó; cách xa ngàn dặm anh bạn thấy rõ phe nào ủng hộ, phe nào chống đối, vì sao nhóm nầy theo, vì sao nhóm kia chống..., việc gì việc ấy sáng tỏ như ban ngày, có lý do, có liên hệ đường hoàng. Thì ra trong khi ngồi lơ mơ nặn mụn, không phải anh bạn nhu mì chỉ nghĩ tới người bạn trăm năm! Không có biến chuyển nhỏ nhặt nào của thế cuộc mà anh không đón thu.
Lớp già, lớp trung, lớp trẻ, người dân Quảng bất cứ thuộc hạng tuổi tác nào đều thiết tha với chính trị. “Ba sinh hương lửa” đều có họ tham dự. Trong huyết quản của mỗi người dân Quảng hình như đều có tí máu chính trị luân lưu.
Võ Phiến
(Còn tiếp) 
(Diễn Đàn Thế Kỷ)
Link to comment
Share on other sites

Guest
Reply to this topic...

×   Pasted as rich text.   Paste as plain text instead

  Only 75 emoji are allowed.

×   Your link has been automatically embedded.   Display as a link instead

×   Your previous content has been restored.   Clear editor

×   You cannot paste images directly. Upload or insert images from URL.

 Share


×
×
  • Create New...