Jump to content

HƯNG ĐẠO VƯƠNG: TRẦN QUỐC TUẤN (1228 – 1300)


xứ việt
 Share

Recommended Posts

HƯNG ĐẠO VƯƠNG: TRẦN QUỐC TUẤN (1228 – 1300)

Lời tòa soạn: Chúng ta chuẩn bị tổ chức Lễ Húy Nhật Đức Thánh Trần Hưng Đạo, riêng tại San Jose, còn tổ chức lễ khánh thành tượng Đức Thánh Trần. Nhân dịp này, chúng tôi kính mời qúy vị ôn lại cuộc đời và trang sử liệt oanh của ngài. 
 
Cali Today News – Trần Quốc Tuấn quê Nam Định, văn võ song toàn, phụ thân là Trần Liễu đã trăng trối:“Con không vì cha lấy thiên hạ thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Vì Lý Chiêu Hoàng chưa có con nối dõi, Trần Thủ Độ bắt vợ Trần Liễu có thai 3 tháng đưa về làm vợ Trần Thái Tông.
 
Khi vua Trần phong ông chức Tiết Chế (như Nguyên soái), binh quyền trong tay, ông luôn đặt quyền lợi quốc gia trên quyền lợi gia đình, quên thù nhà, sắt son lo quốc gia. Năm 1284, quân Nguyên sắp xâm lăng nước ta lần thứ hai, thế giặc quá mạnh, vua thử hỏi: “Trẫm muốn hàng để tránh binh đao cho muôn dân bá tánh”. Ông thưa: “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã”. Ông còn chủ trương “Tận dân vi binh” (mỗi người dân là một người lính), huy động toàn dân chống ngoại xâm, đã đem về chiến thắng vẻ vang.
 
Năm 1287-1288, quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ ba. Dưới lòng sông Bạch Đằng, ông cho đóng cọc nhọn, khi thuỷ triều lên, đem quân khiêu chiến, khi thủy triều xuống, cho quân sĩ đồng loạt phản công, giặc Nguyên bị đại bại. 
 
Hưng Đạo Vương là một vị tướng tài đức lỗi lạc: 
 – Là tướng nhân, thương quân và dân như ruột thịt. 
 – Là tướng nghĩa, vì nghĩa nước mà quên thù nhà. 
 – Là tướng trí, ông có kế sách đánh đuổi quân Nguyên xâm lăng Đại Việt. ông nghĩ ngành trưởng (Trần Liễu, Trần Quốc Tuấn) và ngành thứ (Trần Cảnh, Trần Quang Khải) mà bất hòa thì kẻ có lợi là quân thù, nên đã chủ động giao hảo với Trần Quang Khải, tạo sự thống nhất ý chí vương triều nhà Trần, nhờ vậy mới đánh đuổi được quân Nguyên rất hung hãn. Vương sáng suốt đề cử hiền tài ra giúp nước, không phân biệt thành phần xã hội, nên họ đã đóng góp rất lớn trong việc đánh đuổi quân Nguyên, như: Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão. Người có tội đang bị phạt mà có tài như Trần Khánh Dư, cũng được ông xin vua xá tội để hợp sức chống giặc. Ông hộ giá vua, tay chống gậy đầu bịt sắt, người ta xầm xì sợ ông giết vua, ông cho tháo bỏ phần bịt sắt ở đầu gậy để tránh hiềm nghi, nên vua quan, quân dân đều yên lòng và kính trọng ông hơn. 
 – Là tướng tín, Vương luôn giữ lời hứa và thưởng phạt nghiêm minh, chỉ bảo điều hay lẽ phải cho tướng sĩ, như: Hịch Tướng sĩ…
    Trần Hưng Đạo là vị tướng lỗi lạc, đã soạn cuốn “Binh thư yếu lược” và “Vạn Kiếp bí truyền thư” để chỉ dẫn các thuộc tướng cầm quân đánh giặc. Ông còn viết “Hịch tướng sĩ” để truyền dạy tướng sĩ biết thế nào là nhục nhã nếu nòi giống bị ngoại xâm đô hộ, khích lệ lòng can trường đánh đuổi giặc. Lời lẽ sâu sắc hào hùng, từ đó khẳng định văn chương của Hưng Đạo Vương là bậc đại bút.
 
Khi Vương sắp mất, vua Trần Anh Tông đến thăm và hỏi: “Nếu chẳng may ông mất, rồi giặc phương Bắc lại sang xâm lấn Đại Việt, thì ta phải dùng kế sách gì”. Vương kiến giải lời tâm huyết sâu sắc, ai lèo lái quốc gia nên nghiền ngẫm: “Quân địch ào ạt tràn đến như lửa, như gió, thế ấy dễ trị. Nếu chúng dùng chước như tằm ăn lá dâu, không cần mau thắng, không cướp bóc của dân thì phải lựa lương Tướng, như đánh cờ vậy, cốt Binh và Tướng phải như cha con. Thời bình phải khoan thư sức dân, vun bồi đất nước là phương sách sâu gốc bền rễ, đấy là thượng sách để giữ nước”. 
      Vương căn dặn trước khi mất: “Thi hài hỏa táng chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, lấp đất bằng phẳng, rồi trồng cây như cũ”. Vương mất ngày 20-8 năm Canh Tý (1300), ai ai cũng tiếc thương, triều đình cho lập đền thờ ở Kiếp Bạc, huyện Chí Linh, Hải Dương. Dân chúng tôn kính gọi: Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần, đây là điều đặc biệt trong lịch sử. Ngày lễ tưởng niệm Vương  vào ngày 20 tháng 8 âm lịch (ngày mất).         Vương là danh nhân quân sự thế giới; vào năm 1984 tại London (Anh quốc) trong cuộc họp bình chọn 10 người tài xuất sắc (top ten) bầu chọn 10 nhà quân sự lỗi lạc và 10 nhà bác học giỏi nhất thế giới, Hoàng gia Anh làm chủ trì. Hưng Đạo Vương được chọn là một trong 10 vị Đại Nguyên soái quân sự lỗi lạc nhất thế giới. 
 
 *- Thiết nghĩ: Quân Mông Cổ, đầu thế kỷ thứ XIII, Hồi quốc là đế quốc gồm Ba Tư, Tiểu Á Tế Á, quân Mông Cổ đã đánh phá 40 vạn binh của Hồi quốc tan tành và kinh đô cũng thành tro bụi. Tháng 12-1237 tới tháng 5-1238, Mông Cổ chiếm 4/5 nước Nga. Các quốc gia Tây Âu lo sợ, Giáo hoàng Innocent IV và vua Louis nước Pháp cử người cầu hòa với Mông Cổ. Tại Á Đông, vào năm 1226, Tây Hạ đầu hàng và bị sáp nhập vào đế quốc Mông Cổ. Nhưng tại Việt Nam, vào năm 1285, Trần Hưng Đạo đã thống lãnh 20 vạn quân Đại Việt đánh tan tác 50 vạn quân Nguyên xâm lược nước ta. 
     
So sánh, Hưng Đạo Vương và ông Quan Công (Quan Vân Trường) của Tàu. Hưng Đạo Vương lỗi lạc hơn vì Quan Công có nhiều lầm lỗi, như:
 
 1- Thiếu lập trường, thả giặc nơi Hoa Dung: Sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích, chạy rã rời lại gặp Quan Công phục binh. Trong Tam Quốc Chí, tác giả La Quán Trung, dịch giả Phan Kế Bính, ghi rằng: “Vân Trường xưa nay vẫn là người trọng nghĩa, nhớ đến ân tình Tào Tháo khi xưa đãi mình rất hậu và việc qua năm ải, chém sáu tướng, không khỏi động lòng…” và ghi: “Quan Công quay ngựa lại, bảo quân sĩ rằng: Bốn mặt dãn cả ra, Tháo thấy vậy cùng các tướng sĩ kéo ồ cả đi”. Quan Công tự ý thả giặc, nói sao với Lưu Bị vừa là chúa công vừa là anh em kết nghĩa, nói sao với quân dân Hán và quân dân Tây Thục?!
 
 2- Đơn đao phó hội: Năm 211, Lưu Bị đem quân vào Tây Xuyên, giao Quan Vũ trấn giữ Kinh châu. Tôn Quyền muốn lấy Kinh châu, Lỗ Túc hiến kế: “Dụ Quan Vũ đến hội ở Lục Khẩu và cho phục binh, nếu Quan Vũ không đồng ý giao Kinh châu cho Đông Ngô thì sẽ giết chết”. Khi Quan Vũ được thư mời, liền hứa đến trại quân Đông Ngô phó hội. Mã Lương can: “Tướng quân chớ nên khinh thường mà đi”. Nhưng Quan Công vẫn cầm đơn đao phó hội, khi thấy sắp biến thì thủ đao và nắm lấy Lỗ Túc khiến quân Ngô không thể động thủ, nên Quan Vũ thoát được trở về. Việc làm này tự ý khinh suất, nếu Quan Vũ bị hại thì Kinh châu bị Đông Ngô lấy mất?! Làm chủ tướng như thế có đáng trách không?!
 
 3- Nói năng lỗ mãng, tự cao: Gia Cát Cẩn (anh ruột Khổng Minh) vâng lệnh chúa Đông Ngô đến Kinh Châu, Cẩn thưa: “Tôi đến đây, có ý kết hiếu hai nhà, chúa công tôi (Ngô hầu) có con trai thông minh, nghe tướng quân có cô con gái, đến cầu hôn để hai nhà hòa hiếu, hiệp lực đánh Tào, xin tướng quân xét cho”. Con vua Ngô, cầu hôn với con của một tướng quân; Quan Công lại lỗ mãng: “Con gái ta ví như loài hổ lại thèm gả cho loài chó à!”, lời lẽ vụng về lỗ mãng, Ngô hầu nghe thuật lại nổi giận đùng đùng, cử binh đánh Kinh Châu. Do đó, Quan Công mới bị mất Kinh Châu và bị quân Ngô giết chết, từ đó Lưu Bị bắt đầu đại bại và đưa đến mất nước. 
   
 Nhà Thanh cai trị nước Tàu, nhiều người muốn phù Minh diệt Thanh, nhà Thanh phải tương kế tựu kế, thổi phồng những chuyện mê tín về Quan Công, để biến từ những cuộc họp nơi Quan Công miếu về chính trị, thành hội họp để cúng kính vì mê tín. Ông Quan Công được dân Tàu và Việt Nam thờ phụng rất long trọng. Suy gẫm Đức Thánh Trần đều hơn hẳn Quan Công về tài và đức. Người Tàu thờ ông Quan Công là quyền của họ. Nhưng người Việt Nam phải thờ Đức Hưng Đạo mới đúng?! Giả sử Đức Thánh Trần và ông Quan Công đều hiển thánh, thì ai sẽ thương và lo cho dân Việt Nam hơn???! 
 
Cảm phục: Trần Hưng Đạo
 
Trần Hưng Đạo, lỗi lạc phi thường!
Tâm huyết nấu nung giữ thổ cương
“Hịch Tướng Sĩ”, lo lường tiết nghĩa
“Cuốn Binh Thư”, chỉ dẫn sa trường(a)
Ngự phòng Mông Cổ, gìn non nước  
Đánh dẹp xâm lăng, trừ Bắc phương
Máu giặc, Đằng giang còn đỏ nước(b)
Chiến công lừng lẫy, vẹn quê hương!
            ____________
(a)-  Sa trường: Sa là cát. Trường là bãi đất rộng. Đường thi: “Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi” (Say nằm trận địa đừng cười . Xưa nay chinh chiến mấy người hồi hương). Sa còn lấy ý của chữ sa bàn là hình mẫu đắp bằng đồ vật thu nhỏ  (thảo luận chiến trận trên sa bàn). Từ đấy chữ  sa trường chỉ nơi trận địa.
(b)- Khi Minh Tư Tông nhắc lại Mã Viện dựng cột đồng. Thám hoa Giang Văn Minh đáp lại tại triều Minh (Tàu) câu: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ máu còn hồng).
 
Nguyễn Lộc Yên  
Link to comment
Share on other sites

Guest
Reply to this topic...

×   Pasted as rich text.   Paste as plain text instead

  Only 75 emoji are allowed.

×   Your link has been automatically embedded.   Display as a link instead

×   Your previous content has been restored.   Clear editor

×   You cannot paste images directly. Upload or insert images from URL.

 Share


×
×
  • Create New...